Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 06/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2023, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2023/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy T, sinh năm 1998 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Thôn N 1, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Đỗ Thị Kim H; có vợ là Phạm Thị Thanh T1 và có 01 con; Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 17/3/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 16/9/2021.

Nhân thân:

Ngày 19/01/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 03/11/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 06/01/2020, bị Chủ tịch UBND xã Phước Sơn, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn 06 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 02/11/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

2. Phạm Thị Thanh T1, sinh năm 1995 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Thôn L 2, xã N, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 3/12;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nữ; Con ông Phạm Văn N và bà Nguyễn Thị M; có chồng là Nguyễn Duy T và có 03 con; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 22/11/2021, bị Ủy ban nhân dân xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

Ngày 26/10/2015, bị Phòng PC47 Công an tỉnh Ninh Thuận xử phạt 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 09/12/2022, bị Công cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ra quyết định khởi tố vụ án số 187 và Quyết định khởi tố bị can số 272 về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 04/4/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

- Bị hại: Chị Bùi Nguyễn Kim K, sinh năm 1975.

Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 01/11/2022, Nguyễn Duy T chở theo vợ là Phạm Thị Thanh T1 đến nhà chị gái của T1 ở phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm để thăm con. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển số 85R5-xxxx chở T1 đi về nhà T1. Khi đi ngang qua số nhà 83 đường Cao Thắng, thuộc khu phố 5, phường Đạo Long, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, T1 nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển số 85B1-xxxx của chị Bùi Nguyễn Kim K đang dựng ở lề đường, trên xe có treo một túi xách bằng da màu nâu trên tay lái bên trái không có người trông coi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. T1 nói T điều khiển xe quay đầu lại, T đồng ý và điều khiển xe quay lại, đi ngang qua xe mô tô của chị K rồi quay đầu lại để chạy về hướng xe mô tô đang dựng. T áp sát xe mô tô của chị K, T1 ngồi sau dùng tay phải lấy túi xách trên xe của chị K. Sau đó, T điều khiển xe chở T1 về nhà ở thôn L 2, xã N, huyện N. Trên đường đi, T nói T1 mở túi xách ra để kiểm tra thì phát hiện bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 8 PLUS màu đen và số tiền 1.000.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng). Sau khi kiểm tra không còn tài sản gì giá trị, T1 lấy điện thoại và số tiền trên rồi đưa túi xách cho T vứt xuống sông Dinh.

Chiều ngày 02/11/2022, tại Cơ quan Cảnh sát điều tra T và T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng thời giao nộp 01 điện thoại IPHONE 8 PLUS, số tiền 1.000.000 đồng, T1 đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 116/KLTS, ngày 07/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, kết luận: Điện thoại di động hiệu IPHONE 8 PLUS, màu đen, đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 01 tháng 11 năm 2022 có giá trị trên thị trường là 3.500.000đ.

Như vậy, tổng giá trị tài sản T và T1 chiếm đoạt là 4.500.000 đồng. Vật chứng của vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 8 PLUS, màu đen, đã qua sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị K.

- 01 (một) xe mô tô biển số 85R5-xxxx T và T1 sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác minh được nguồn gốc xe nên tiếp tục tạm giữ để xử lý sau.

Về dân sự: Quá trình điều tra chị K yêu cầu T và T1 bồi thường số tiền 1.000.000 đồng. T và T1 đồng ý nhưng chưa bồi thường.

Bản Cáo trạng số 26/CT-VKSPRTC ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố các bị cáo Nguyễn Duy T và Phạm Thị Thanh T1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Các bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

- Bị hại Bùi Nguyễn Kim K vắng mặt, có đơn trình bày: Xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo T và T1. Tôi đã nhận lại 01 điện thoại IPHONE 8 PLUS màu đen. Số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) thì tôi không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường cho tôi nữa. Đối với 01 túi xách tôi mua sử dụng đã lâu không còn giá trị sử dụng nên không có yêu cầu gì.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy T và Phạm Thị Thanh T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T từ 12 (mười hai) tháng tù đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T1. Xử phạt bị cáo Phạm Thị Thanh T1 từ 09 (chín) tháng tù đến 12 (mười hai) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất là điện thoại di động hiệu IPHONE 8 PLUS, đối với số tiền 1.000.000 đồng không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tiếp tục giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 01 (một) xe mô tô biển số 85R5-xxxx để xác minh nguồn gốc và xử lý sau.

Các bị cáo không trình bày tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo T và T1 xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, không ai yêu cầu Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. Xét việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử các bị cáo nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01/11/2022, tại khu phố 5, phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, bị cáo Nguyễn Duy T và Phạm Thị Thanh T1 đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 8 PLUS màu đen và số tiền 1.000.000 đồng của chị Bùi Nguyễn Kim K. Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 4.500.000 đồng. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố các bị cáo Nguyễn Duy T và Phạm Thị Thanh T1 về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên phải xử lý nghiêm minh nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, Hội đồng xét xử sẽ phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi của từng bị cáo để có căn cứ lượng hình:

- Bị cáo T thực hiện với vai trò giúp sức sau khi được T1 nói quay xe lại thì bị cáo đồng ý và điều khiển xe mô tô 85R5-xxxx chở T1 quay lại áp sát xe mô tô của chị K để cho T1 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị K trị giá 4.500.000 đồng, sau đó chở T1 về nhà. Bị cáo có nhân thân xấu nhiều lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, có 1 tiền án: Ngày 17/3/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích. Nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

- Bị cáo T1 là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị là 4.500.000 đồng. Bị cáo có nhân thân xấu: Bị phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Thuận ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Ngày 04/4/2023 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 09/12/2022, bị cáo còn bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngoài ra, bị cáo có 01 tiền sự ngày 22/11/2021, bị Ủy ban nhân dân xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật với hình phạt tù có thời hạn.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T có 01 tình tiết tăng tặng là tái phạm, bị cáo T1 không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đây là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, do đó Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình mức án phù hợp cho các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Bùi Nguyễn Kim K không có yêu cầu gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 8 PLUS, màu đen, đã qua sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị Bùi Nguyễn Kim K chủ sở hữu là có căn cứ.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 85R5-xxxx T và T1 sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác minh được nguồn gốc xe nên tiếp tục tạm giữ để xử lý sau là phù hợp.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Duy T.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phạm Thị Thanh T1.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Duy T, Phạm Thị Thanh T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 02/11/2022.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Thanh T1 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Giao 01 (một) xe mô tô biển số 85R5-xxxx đã qua sử dụng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tiếp tục tạm giữ để điều tra làm rõ, xử lý sau. (Hiện xe mô tô biển số 85R5-xxxx đang được quản lý tại kho vật chứng Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Duy T, Phạm Thị Thanh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt các bị cáo quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/4/2023); vắng mặt bị hại quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2023/HS-ST

Số hiệu:43/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về