Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 43/2022/HSST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, xét xử công khai sơ thẩm vụ hình sự thụ lý số 35/2022/HSST ngày 16 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXX-ST ngày 06 tháng 6 năm 2022, đối với.

Bị cáo: Họ và tên Vũ Thị H, sinh năm 1985; Giới tính: Nữ; Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Đình C và con bà Lê Thị L (đều đã chết), Chồng Lê Đình M và 3 con nhỏ; Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/02/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Lê Trịnh Kim Ch, sinh năm 2002 Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện T,tỉnh Thanh Hóa, Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 29/01/2022, bị cáo đến cửa hàng tạp hóa Thanh Hoa, ở thôn Hà Lũng, xã Thọ Dân, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa (gần công ty nơi bị cáo làm việc) để mua đồ dùng cá nhân, trong lúc chọn đồ bị cáo phát hiện thấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs màu trắng của chị Lê Trịnh Kim Ch (nhân viên bán hàng) để trên thùng giấy cát tông trong cửa hàng, quan sát thấy không ai để ý nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp, bị cáo dùng một hộp khăn giấy đặt lên trên điện thoại nhằm che khuất tầm nhìn và tiếp tục đi chọn đồ để mua, sau khi chọn đồ xong, bị cáo quay lại chổ để hộp giấy cầm điện thoại bỏ vào túi quần bên phải của mình rồi ra thanh toán tiền số hàng vừa mua. Sau khi lấy được điện thoại bị cáo đi về công ty công ty giầy ADIANA nơi bị cáo đang làm việc, mang điện thoại vào nhà vệ sinh của công ty để tìm cách tháo sim trong điện thoại vừa trộm cắp ra nhưng không tháo được sim nên bị cáo nhờ người phụ nữ không rõ tên tuổi làm cùng công ty giúp tháo sim điện thoại. Sau khi tháo được sim, bị cáo đi về vị trí làm việc của mình và bỏ điện thoại vào túi ni lông màu xanh dưới gầm ghế và tiếp tục làm việc, đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo được Công an xã Thọ Dân triệu tập đến làm việc, tại Công an xã Thọ Dân bị cáo tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại đã trộm cắp của chị Ch và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 14/02/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Triệu Sơn xác định 01 điện thoại Iphone Xs màu trắng, đã qua sử dụng trị giá 5.615.000đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm phần dân sự.

Cáo trạng số 34/CT-VKS-TS ngày 11/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS) Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS, để tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 12 đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao bị cáo cho chính quyền nơi bị cáo cư trú, giám sát giáo dục.

Về dân sự: Người bị hại chị Lê Trịnh Kim Chiđã nhận lại tài sản, tại phiên tòa không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Phần tranh luận: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng và luận tội của viện kiểm sát, không tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng khoan hồng của pháp luật và xin được cải tạo tại địa phương để có điều kiện làm việc nuôi các con nhỏ. Bị hại đề nghị HĐXX xử bị cáo mức án thấp nhất và tạo điều kiện cho bị cáo được cải tao tại địa phương để lao động kiếm tiền nuôi ba con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Các hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người làm chứng đều không có khiếu nại, tố cáo gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện thể hiện trong hồ sơ đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 29/01/2022, sau khi được nghỉ trưa, bị cáo đến cửa hàng tạp hóa Thanh Hoa, ở thôn Hà Lũng, xã Thọ Dân, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, gần công ty để mua đồ dùng cá nhân, khi chọn đô, phát hiện thấy 1 điện thoại của chị Lê Trịnh Kim Ch (nhân viên bản hàng) đang để trên thùng giấy, lợi dung sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của bị hại chị Ch, bị cáo đã trộm cắp của chị Chi 01 điện thoại Iphone Xs màu trắng trị giá 5.615.000đồng, đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi được Công an xã Thọ Dân mời lên làm việc bị cáo đã tự nguyện giao nộp tài sản trộm cắp và khai nhận hành vi phạm tội.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa và phù hợp với nội dung Cáo trạng.

Như vậy Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của người khác, bị cáo đã trộm cắp 01 điện thoại Iphone Xs màu trắng của chị Lê Trịnh Kim Ch trị giá 5.615.000đồng, Sau khi được Công an xã triệu tập đến làm việc bị cáo đã tự nguyện giao nộp tài sản trộm cắp và khai nhận hành vi phạm tội, như vậy hành vi của cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Vì mục đích tư lợi và bằng hành vi lén lút bị cáo đã trộm cắp của chị Lê Trịnh Kim Ch trị giá 5.615.000đồng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm quyền sở hữu tài sản của người khác gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

+ Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình hoàn cảnh khó khăn con đông, đều còn nhỏ bản thân bị cáo là lao động chính, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, nên được xem xét áp dụng cho bị cáo.

+ Về nhân thân: Bị cáo nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (02 tình tiết ở khoản 1 và 2 tình tiết khoản 2 Điều 51 BLHS khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thiệt hại đã được khắc phục, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, gia đình hoàn cảnh khó khăn, đông con, chồng không có việc làm ổn định) nên không cần thiết cách ly bị cáo mà áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo cải tạo tại địa phương, việc cho bị cáo cải tạo tại địa phương thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người nhất thời phạm tội, phạm tội ít nghiêm trọng và không làm ảnh hưởng xấu đến việc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung cũng như răn đe giáo dục bị cáo nói riêng.

Theo tài liệu có trong hồ sơ và lời khai tại phiên tòa thấy bị cáo là lao động chính, thu nhập thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con đông, nếu áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là khó khăn thêm cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, tại phiên tòa không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Vũ Thị H 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Vũ Thị H cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, gia đình bị cáo Vũ Thị H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo Vũ Thị H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng: Điều 136, 331, 333, 336 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Thị H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo, bị hại đều có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên theo quy định của pháp luât tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2022/HSST

Số hiệu:43/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về