Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 27 tháng 7 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trung H (H Đ), sinh năm 1983, tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn 9, xã Ea N, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1957; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án:

Bản án số 16/2007/HSST ngày 08 tháng 02 năm 2007 của Tòa án nhân dân thành phố Thái B, tỉnh Thái Bình xử phạt 24 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Bán án số 64/2010/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2010 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn H, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Bản án số 07/2013/HSST ngày 26 tháng 3 năm 2013 của Tòa án nhân dân huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Bản án số 03/2017/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Cư J, tỉnh Đắk Nông xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Không;

Nhân thân:

Ngày 24 tháng 4 năm 2002, bị Tòa án nhân dân thị xã Thái B, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ngày 19 tháng 11 năm 2002, bị Tòa án nhân dân thị xã Thái B, tỉnh Thái Bình xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt ngày 21 tháng 3 năm 2021, hiện đang tạm giam, có mặt.

- Người bị hại: Ông Lê Hồng S, sinh năm 1972, vắng mặt; Bà Trần Thị H, sinh năm 1977, vắng mặt.

Trú tại: Thôn 11, xã Phú X, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk.

- Người làm chứng:

1. Ông Mai Văn H, sinh năm 1975, vắng mặt;

Trú tại: Thôn 9, xã Phú X, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Đinh Cao S, sinh năm 1973, vắng mặt.

Trú tại: Thôn 9, xã Phú X, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 21 tháng 3 năm 2021, trong lúc uống cà phê, Vũ Đức H (H1) rủ Nguyễn Trung H (H2) đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài thì được H2 đồng ý. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, H1 điều khiển xe mô tô mang BKS 47C1 - xxxxx chở H2 đi từ hướng thị xã Buôn H vào huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk để quan sát nếu thấy nhà ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà ông Lê Hồng S, bà Trần Thị H thuộc thôn 11, xã Phú X, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk, phát hiện nhà ông S, bà H đang phơi tiêu không có người trông coi, H1 nói với H2 đứng ngoài cảnh giới còn H1 vào gom tiêu lại thành đống. Sau đó, H1 ra gọi H1 vào và cả hai dùng bao xác rắn để hốt tiêu. Ông S trong nhà phát hiện có người trộm cắp tài sản nên đã điện thoại cho ông Mai Văn H và ông Đinh Cao S đến để giúp đỡ. Một lúc sau, H1 và H2 vác tiêu ra về thì bị ông S, ông H và ông S bắt giữ được H2 còn H1 bỏ chạy.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 19/KL – HĐĐGTS ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk kết luận: 01 bao tiêu khô, khối lượng 11 kg có giá 770.000đ; 01 bao tiêu khô, khối lượng 02 kg có giá 140.000đ. Tổng giá trị tài sản: 910.000đ.

Bản cáo trạng số 45/CT - VKS ngày 06 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản’’ theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội trộm cắp tài sản và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù. Về phần trách nhiệm dân sự: Công nhận Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Lê Hồng S, bà Trần Thị H 13kg tiêu khô và 02 bao xác rắn. Về xử lý vật chứng: Công nhận Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại cho bị cáo 01 ví da, 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ bảo hiểm y tế và tạm giữ số tiền 70.000đ của bị cáo. Đối với 01 Ipad, 01 xe mô tô là tài sản của Vũ Đức H. Hiện nay, chưa bắt được H nên Cơ quan điều tra tách ra để xử lý sau.

Bị cáo không tranh luận gì mà xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 21 tháng 3 năm 2021, tại nhà ông Lê Hồng S, bà Trần Thị H thuộc thôn 11, xã Phú X, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk bị cáo H cùng Vũ Đức H trộm cắp của ông Lê Hồng S, bà Trần Thị H số tài sản có tổng giá trị là 910.000đ, nhưng trước đó bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Do đó bị cáo đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm, hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đ đến dưới 50.000.000đ hoặc dưới 2.000.000đ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a)...

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

[3] Xét thấy hành vi của bị cáo không những đã xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của ông S, bà H một cách trái pháp luật mà còn xâm phạm đến trật tự trị an trong xã hội. Mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được rằng tài sản của người khác là vốn quý, được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái phép đều bị pháp luật trừng trị, nhưng xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật và với mục đích tư lợi cá nhân nên khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 21 tháng 3 năm 2021, bị cáo và Vũ Đức H đã lợi dụng sự sơ hở, trộm cắp của ông S, bà H với tổng giá trị tài sản là 910.000đ. Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu vì vậy đòi hỏi pháp luật phải có biện pháp trừng trị thích đáng đối với bị cáo, buộc bị cáo cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự, do đó Hội đồng xét xử áp dụng để giảm cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, Công an huyện Krông N đã trả lại tài sản cho ông S, bà H. Ông S, bà H không yêu cầu bị cáo bồi thường do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô mang BKS 47C1 - xxxxx và 01 máy tính bảng (Ipad) là tài sản của Vũ Đức H, nhưng do Vũ Đức H bỏ trốn nên Công an huyện Krông N tách ra để xử lý sau.

Đối với 01 ví da màu nâu, 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ bảo hiểm y tế và số tiền 70.000đ là tài sản của bị cáo H, không liên quan đến vụ án vì vậy Công an huyện Krông N trả lại cho bị cáo, nhưng tiếp tục tạm giữ số tiền 70.000đ để đảm bảo thi hành án là đúng với quy định của pháp luật. Do đó HĐXX chấp nhận và tiếp tục tạm giữ số tiền 70.000đ của bị cáo.

Đối 01 bao xác rắn, hiệu SA bên trong đựng 11kg tiêu khô và 01 bao xác rắn loại SA bên trong đựng 02kg tiêu khô là tài sản của ông S, bà H vì vậy Công an huyện Krông N đã trả lại là hợp pháp.

[7] Các vấn đề khác: Đối với Vũ Đức H đã có hành vi cùng bị cáo thực hiện việc trộm cắp tài sản của ông S, bà H, nhưng H đã bỏ trốn cho nên Công an huyện Krông N đã tách ra để điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21 tháng 3 năm 2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật hình sự; Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giữ của bị cáo số tiền 70.000đ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Lê Hồng S, bà Trần Thị H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2021/HS-ST

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về