Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 18/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2023/TLST- HS ngày 14 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 14/QĐHPT-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyn Minh T, sinh năm 1993 tại tỉnh T; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở hiện nay: Ấp TA, xã TB, huyện TB, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ học vấn: 09/12; Cha: Nguyễn Văn G, sinh năm 1970; Mẹ: Phan Thị K, sinh năm 1970 (đã chết); Anh chị em ruột: Có 01 người; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Bản án 91/2021/HS-ST ngày 17-9-2021 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh T áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Minh T 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 18-5-2022, chưa được xoá án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Quyết định xử lý hành chính số 52/QĐ-XLHC ngày 17-10- 2019 của Toà án nhân dân huyện TB, tỉnh T áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng đối với Nguyễn Minh T, chấp hành xong ngày 20-6-2020, đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05-02-2023 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Trương Phát L, sinh năm 1971; Địa chỉ cư trú: Ấp SN, xã AC, huyện CT, tỉnh T. Vắng mặt, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Hồng P, sinh năm 1995; Địa chỉ cư trú: Khu phố N, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh T. Vắng mặt không có lý do.

2. Chị Trần Thị Hồng H, sinh năm 1993; Địa chỉ cư trú: Khu phố N, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh T. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 27-8-2022, Trần Hồng P, sinh năm 1995, ngụ Khu phố N, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh T điều khiển xe mô tô biển số 93P1- xxxxx chở Nguyễn Minh T từ huyện TB, tỉnh T đi đến trạm y tế phường B, thành phố TN, tỉnh T để lấy thuốc điều trị cai nghiện ma túy. Trên đường đi, do không có tiền tiêu xài nên P rủ T đi tìm tài sản của người khác để lấy trộm thì T đồng ý. P chở T chạy đến khu vực ấp SN, xã AC, huyện CT, tỉnh T thì phát hiện nhà của anh Trương Phát L, sinh năm 1971, ngụ ấp SN, xã AC, huyện CT không có người trong coi nên nảy sinh ý định vào tìm tài sản lấy trộm. P chạy xe vào dựng trước cửa sân nhà anh L, T đi vào trong nhà lấy trộm 20 kg mủ cao su đem ra ngoài, P đi vào chuồng gà lấy 03 kg dây điện lõi đồng đem ra xe chở đi bán thì thì bị anh L phát hiện giữ lại và trình báo vụ việc đến Công an xã AC, huyện CT xử lý.

Qua xác minh thể hiện tại Bản án số 91/2021/HS-ST ngày 17-9-2021 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh T áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Minh T 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Nguyễn Minh T đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản chưa xóa án tích do chưa đủ thời gian đương nhiên xóa án tích nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐG ngày 20/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, kết luận: 20 kg mủ cao su (loại mủ chén) trị giá 273.300 đồng; 03 kg dây điện lõi đồng trị giá 140.000 đồng.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Đã thu giữ tài sản và trả lại tài sản bị lấy trộm cho bị hại anh Trương Phát L.

Đối với 01 xe mô tô biển số 93P1-xxxxx, số máy HC08E-0060627, số khung RLHHC08072Y060828 của chị Trần Thị Hồng H, cơ quan điều tra đã chuyển Công an xã AC, huyện CT, tỉnh T để xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi của Trần Hồng P.

* Về trách nhiệm dân sự: Anh Trương Phát L đã nhận lại tài sản bị lấy trộm, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Cáo trạng số 19/CT-VKSCT ngày 07-3-2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T truy tố Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T trình bày bản luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 12 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

+ Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại Trương Phát L đã nhận lại tài sản bị lấy trộm, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận cùng với Trần Hồng P lấy trộm tài sản là mủ cao su và dây điện của anh Trương Phát L thì bị bắt quả tang. Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên và nói lời nói sau cùng: “Bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình, xã hội”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định này nên các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên toà, bị hại Trương Phát L vắng mặt có đơn xin giải quyết vắng mặt và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Hồng P, chị Trần Thị Hồng H đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên toà nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh L, anh P, chị H theo quy định pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, thời gian địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định:

Nguyễn Minh T đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản theo quyết định bản án hình sự sơ thẩm số 91/2021/HS-ST ngày 17-9-2021 của Toà án nhân dân huyện TB, tỉnh T, chưa được xóa án tích. Vào ngày 27-8-2022, tại ấp SN, xã AC, huyện CT, tỉnh T, Nguyễn Minh T và Trần Hồng P tiếp tục thực hiện hành vi lén lút lấy trộm 20 kg mủ cao su (loại mủ chén) trị giá 273.300 đồng và 03 kg dây điện lõi đồng trị giá 140.000 đồng của anh Trương Phát L thì bị phát hiện bắt quả tang. Kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐG ngày 20/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C xác định tổng trị giá tài sản bị lấy trộm là 413.300 (Bốn trăm mười ba nghìn ba trăm) đồng.

Hành vi của bị cáo T có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng 19/CT-VKSCT ngày 07-3-2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội mang tính chất ít nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Do đó cần xử bị cáo mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Khi quyết định hình phạt cần xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi của mình và phạm tội nhưng thiệt hại xảy ra không lớn nên bị cáo Thiện được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Năm 2019 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng, chấp hành xong ngày 20-6-2020 đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Năm 2021 bị Toà án nhân dân huyện TB, tỉnh T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xoá án tích. Tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa bản thân mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội.

Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Trương Phát L đã nhận lại tài sản bị mất trộm là 20kg mủ cao su và 03 kg dây điện lõi đồng. Ghi nhận anh L không yêu cầu bị cáo và anh P bồi thường gì thêm.

[5] Về xử lý vật chứng:

Ghi nhận cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh T đã trả lại 20kg mủ cao su (loại mủ chén) và 03 kg dây điện lõi đồng cho bị hại Trương Phát L.

Đối với 01 xe mô tô biển số 93P1-xxxxx, số máy HC08E-0060627, số khung RLHHC08072Y060828 của chị Trần Thị Hồng H do chị H không biết P sử dụng xe đi trộm cắp tài sản nên cơ quan điều tra Công an huyện C đã chuyển đến Công an xã AC, huyện CT, tỉnh T để xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi của Trần Hồng P.

[6] Đối với hành vi trộm cắp tài sản của Trần Hồng P chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an xã AC, huyện CT đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03/QĐ-XPHC ngày 23-02-2023 xử phạt Phúc số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 05-02-2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại Trương Phát L đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Ghi nhận cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh T đã trả lại 20kg mủ cao su (loại mủ chén) và 03 kg dây điện lõi đồng cho bị hại Trương Phát L và đã chuyển 01 xe mô tô biển số 93P1-xxxxx, số máy HC08E- 0060627, số khung RLHHC08072Y060828 đến Công an xã AC, huyện CT, tỉnh T để xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi của Trần Hồng P.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Ðiều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Ðiều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về