Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2022/TLST- HS ngày 31/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HS ngày 04/4/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/HSST-QĐ ngày 22/4/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa ngày 29/4/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị V, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2005 (Khi phạm tội 16 tuổi 9 tháng 13 ngày); Đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn HN, xã VV, huyện CM, thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967 và bà Phạm Thị V1, sinh năm 1968. Danh chỉ bản số 70 lập ngày 07/01/2022 tại Công an huyện CM.

Tiền án, tiền sự: Không Tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo V: Bà Phạm Thị V1 – sinh năm 1968 (mẹ đẻ); Địa chỉ: Thôn HN, xã VV, huyện CM, thành phố Hà Nội. Có mặt

* Người bào chữa cho bị cáo V: Ông Nguyễn Văn V2 – Trợ giúp viên pháp lý Chi nhánh số 9 thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt

* Bị hại: Chị Trần Thị Tố N, sinh năm 2003; Địa chỉ: thôn XD, xã Xuân D, huyện TO, thành phố Hà Nội. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Trần Thị Tố N là bạn bè quen biết với Nguyễn Thị V. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/11/2021, chị N đến nhà V mượn áo đi có việc thì V đồng ý. Khi vào nhà V, chị N mang theo 01 túi xách trong đó có 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus và các đồ dùng cá nhân để ở hiên nhà V. Lúc này, V đưa áo cho chị N mượn, rồi chị N vào nhà vệ sinh thay đồ. Trong lúc chị N thay đồ, V phát hiện túi xách của chị N đang mở và nhìn vào bên trong thấy có 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus, nên V nảy sinh ý định trộm chiếc điện thoại trên. V nhìn xung quanh không có ai chỉ có các cháu nhỏ nhà anh trai đang xem tivi, chị N đang thay đồ trong nhà vệ sinh nên V lén lút lấy trộm chiếc điện thoại trong túi xách của chị N, rồi nhanh chóng tắt máy để im lặng, cất giấu vào trong phòng ngủ của V. Sau khi thay đồ xong, chị N lấy túi xách thì phát hiện bị mất điện thoại, chị N và V cùng nhau đi tìm chiếc điện thoại trên nhưng không thấy. Nghi ngờ bị V lấy điện thoại của mình nhưng V không nhận, nên ngày 30/11/2021, chị N đến Công an xã trình báo. Ngày 04/12/2021, Nguyễn Thị V đến Công an xã đầu thú và giao nộp chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus.

Tang vật thu giữ: 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 7Plus màu trắng, có ốp màu hồng, không có sim, đã qua sử dụng, số IMEI: 355838081765806 do Nguyễn Thị V tự nguyện giao nộp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 146/KL-HĐĐG ngày 09/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CM kết luận:

- 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 7Plus màu trắng, dung lượng 32GB, không có sim, mua cũ tháng 11 năm 2021, vẫn sử dụng được. Có giá trị là: 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng).

- 01 (một) chiếc ốp nhựa màu hồng. Có giá trị là: 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng).

- 01 (một) sim điện thoại Viettel bằng nhựa, số thuê bao 0388643372. Có giá trị là: 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

Tổng giá trị là: 3.620.000 đồng (ba triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng).

Ngày 05/01/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện CM ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng, có ốp màu hồng, không có sim, cũ đã qua sử dụng cho chị Trần Thị Tố N quản lý, sử dụng.

Trách nhiệm dân sự: Chị Trần Thị Tố N đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho V.

Cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 27/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM truy tố Nguyễn Thị V về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố, kết luận Nguyễn Thị V đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo V từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Người bào chữa và đại diện hợp pháp nhất trí quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, suy nghĩ nông nổi, cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội để có cơ hội sửa chữa sai lầm.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu đề nghị bồi thường gì khác, nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện CM,Viện kiểm sát nhân dân huyện CM và của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Về sự vắng mặt của bị hại: Người bị hại đã có lời khai đầy đủ rõ ràng trong hồ sơ, không yêu cầu bồi thường gì khác. Xét sự vắng mặt của người bị hại tại phiên tòa không ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

2]. Về nội dung:

[2.1]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/11/2021, tại nhà ở của Nguyễn Thị V tại thôn HN, xã VV, huyện CM, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị V đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus trị giá 3.620.000 đồng của chị Trần Thị Tố N. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM và kết luận của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, truy tố bị cáo Nguyễn Thị V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội đã gây ra.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội do cơ hội và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Phạm tội gây thiệt hại không lớn (Trị giá tài sản nhỏ đã trao trả ngay cho người bị hại); Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú; người bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Được quy định tại điểm h, I, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, khi quyết định hình phạt, do bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội Hội đồng xét xử áp dụng Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự. Và không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[2.2] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 05/01/2022, chị Trần Thị Tố N đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: - Khoản 1 Điều 173; Điểm h, I, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự;

- Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Thị V 04 (Bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao Nguyễn Thị V cho Ủy ban nhân dân xã VV, huyện CM, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 68 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị V phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo và người bào chữa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về