Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAH’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2021 tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện E mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 05 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 06 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 13/2021/HSST-QĐ, ngày 30 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

A Drong Y S; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1996, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Buôn T, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Dân tộc: Gia Rai; tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không; con ông: Nay Y T ; Con bà: A Drong H’P;

Tiền án: Có 01 tiền án, Tại Bản án số 88/2017/HSST ngày 26/9/2017, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện E xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 15/12/2018 chấp hành xong hình phạt tù, chưa thi hành tiền án phí hình sự sơ thẩm. Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 03 tháng 3 năm 2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện E, đến ngày 17 tháng 5 năm 2021 được Toà án nhân dân huyện E quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại:

Ông Rmah Y N, sinh năm 1983; Trú tại: Buôn T, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Đình Q, sinh năm 1995; Trú tại: Thôn P, xã L, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt lần thứ 2 không có lý do;

Người phiên dịch: Ông Y M;

Địa chỉ: Buôn Đ, xã K, huyện Ea H'leo, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

A Drong Y S là đối tượng không có việc làm ổn định, thường xuyên bỏ nhà đi lang thang. Vào khoảng 18 giờ ngày 03/5/2019, Y S đi bộ từ nhà ở Buôn T, xã E đến khu vực thuộc thôn 4, xã E. Khi đến rẫy của gia đình anh Rmah Y N, thấy bên trong chòi có chiếc xe máy cày tay (công nông), trên đầu xe có gắn 01 Diamo phát điện. Lúc này Y S nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài nên Y S đi vào bên trong chòi và thấy không có người trông coi tài sản. Sau khi quan sát thấy có tay quay của máy nổ dùng để khởi động xe máy cày ở gần đó, Y S lấy và quay máy nổ rồi điều khiển xe máy cày đi sang huyện C, tỉnh Gia Lai tìm nơi tiêu thụ. Khi đi đến đến tiệm cầm đồ “T L” ở xã L, huyện C, tỉnh Gia Lai do anh Nguyễn Đình Q làm chủ, Y S nói với anh Q rằng bố đẻ của mình mới bị tại nạn giao thông nên muốn bán chiếc xe máy cày của mình lấy tiền điều trị thương tích cho bố. Sau khi thỏa thuận, anh Q đồng ý mua chiếc xe máy cày và cái Diamo với giá: 10.000.000 đồng; nhận số tiền 10.000.000 đồng của anh Q, Y S bỏ đi khỏi địa phương và tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện xe máy cày bị mất, gia đình ông Rmah Y N tổ chức đi tìm kiếm thì phát hiện thấy xe máy cày ở tiệm cầm đồ của gia đình ông Nguyễn Đình Q, ông Y N đã thỏa thuận trả cho ông Q 5.000.000 đồng để lấy xe máy cày và Diamo về sử dụng.

Tại biên bản định giá tài sản số: 355/BB-ĐGTS, ngày 23/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự, kết luận: 01 xe máy cày tay nhãn hiệu JIANGYANG, 22 ngựa, thùng xe làm bằng kim loại có lát sàn gỗ, xe được lắp ráp các bộ phận năm 2012, có giá trị: 13.500.000 đồng; 01 máy phát điện (Diamo) nhãn hiệu DONG FENG, loại 3KW, mua vào năm 2013, có giá trị:

1.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản cần định giá là: 14.500.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã tạm giữ 01 xe máy cày tay, nhãn hiệu JIANGYANG, 22 ngựa và 01 Diamo phát điện, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Rmah Y N, chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Rmah Y N yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình Q yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 5.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo A Drong Y S khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với nhau và nội dung bản cáo trạng là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo, đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, đồng thời giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 07 tháng 05 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện E truy tố đối với đối với A Drong Y S về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã có 1 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xoá án tích nay lại phạm tội mới do cố ý, do vậy áp dụng điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự về trường hợp tái phạm đối với bị cáo;

Về tình tiết giảm nhẹ: Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo A Drong Y S mức hình phạt từ 12 tháng 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án, khấu trừ thời gian bị cáo tạm giam từ ngày 03 tháng 3 năm 2021 đến ngày 17 tháng 5 năm 2021;

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự, đề nghị buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại ông Rmah Y Nhôm số tiền 5.000.000 đồng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình Q số tiền 5.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã trả lại 01 xe máy cày tay, nhãn hiệu JIANGYANG, 22 ngựa và 01 Diamo phát điện, cho ông Rmah Y Nhôm là chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với hành vi mua tài sản trộm cắp mà có của ông Nguyễn Đình Q; Khi mua tài sản của Y S, ông Nguyễn Đình Q không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố và cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo trình bày lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện E, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện E, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào ngày 03 tháng 5 năm 2019, lợi dụng sự sơ hở của ông Rmah Y N, bị cáo A Drong Y S đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy cày tay, nhãn hiệu JIANGYANG, 22 ngựa và 01 Diamo phát điện của ông Rmah Y N. Theo kết luận của Hội đồng định giá, tài sản trộm cắp có giá trị là 14.500.000 đồng.

Như vậy hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cầu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

Lời luận tội của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, còn gây mất ổn định về an ninh, trật tự tại địa phương, làm cho người dân hoang mang, lo lắng. Bị cáo đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, đã chấp hành hình phạt, chưa được xoá án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, cho thấy ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.

Xét thấy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

Đối với Nguyễn Đình Quý, khi mua tài sản của Y S bán, ông Q không biết tài sản đó là do trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý.

[3].Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã có 1 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xoá án tích nay lại phạm tội mới do cố ý, do vậy áp dụng điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự về trường hợp tái phạm đối với bị cáo;

[4].Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn; trong quá trình điều tra, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn thấp. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Cần buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại ông Rmah Y N số tiền 5.000.000 đồng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình Quý số tiền 5.000.000 đồng.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã tạm giữ 01 xe máy cày tay, nhãn hiệu JIANGYANG, 22 ngựa và 01 Diamo phát điện, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Rmah Y N, chủ sở hữu hợp pháp.

[6]. Về án phí: Cần buộc bị cáo ADrong Y S phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo là dân tộc thiểu số ở thôn, buôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo có đơn xin miễn án phí, do vậy miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo ADrong Y S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173 BLHS; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo A Drong Y S 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 03/3/2021 đến ngày 17/5/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại ông Rmah Y N số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình Q số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã trả lại 01 xe máy cày tay, nhãn hiệu JIANGYANG, 22 ngựa và 01 Diamo phát điện, cho ông Rmah Y N là chủ sở hữu hợp pháp.

Về án phí: Căn cứ các Điều điểm đ, khoản 1 Điều 12, Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội, bị cáo ADrong Y S phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm. Bị cáo là dân tộc thiểu số ở thôn, buôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo có đơn xin miễn án phí, do vậy miễn án phí cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2021/HS-ST

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về