Bản án về tội trộm cắp tài sản số 155/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 155/2021/HSST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06/7/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 82/2021/HSST ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2021/QĐXXST-HS ngày 05/5/2021, Quyết định hoãn phiên tòa đối với bị cáo:

1. Đỗ Văn T, sinh năm 1975; ĐKHKTT, trú tại: Thôn X, xã Đ, huyện H, thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Con ông Đỗ Văn Đ và bà Đỗ Thị Th; Vợ là Đoàn Thị Thu H (bị cáo cùng vụ) và có 02 con (con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2007) Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 28/4/2009, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc (bản án số 77/2009/HSST) (đã xóa án).

DCB số 190 do Công an quận Hà Đông lập ngày 03/02/2021; Bị cáo đầu thú; Bị tạm giữ từ ngày 26/01/2021 đến ngày 04/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

2. Vũ Viết Th, sinh năm 1984; ĐKHKTT: Xóm L, xã Đ, huyện T, tỉnh Nam Định; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 4/12; Con ông Vũ Viết M và bà Vũ Thị Th; Vợ, con chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 16/5/2018 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong ngày 31/01/2019) (bản án số 75/2018/HSST).

Nhân thân: Ngày 19/12/2014, bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong ngày 29/7/2015) (bản án số 350/2014/HSST).

DCB số 193 do Công an quận Hà Đông lập ngày 03/02/2021; Bị cáo đầu thú; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/01/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Trung Đ, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Xóm L, xã V, huyện K, tỉnh Phú Thọ; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị G; Vợ là Nguyễn Thị M và có 02 con (con lớn sinh năm 2011 và con nhỏ 2015); Tiền án, tiền sự: Không; DCB số 191 do Công an quận Hà Đông lập ngày 06/02/2021; Bị cáo đầu thú: Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2021. Có mặt tại phiên tòa.

4. Đoàn Thị Thu H, sinh năm 1979; ĐKHKTT, trú tại: Thôn X, xã Đ, huyện H, thành phố Hà Nội; Giới tính: Nữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Đoàn Sỹ D (đã chết) và bà Nguyễn Thị K; Chồng là Đỗ Văn T (bị cáo cùng vụ); Tiền án, tiền sự: Không; DCB số 192 do Công an quận Hà Đông lập ngày 06/02/2021; Bị cáo đầu thú; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2021 đến ngày 04/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn, hiện tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Công ty T; Địa chỉ: Đường 30/4 phường L, thành phố Vũng Tàu; Người đại diện cho công ty anh Nguyễn Thanh V, sinh năm 1981; Trú tại: Phố B, phường D, quận G, thành phố Hà Nội. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Ngô Thị H, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Xóm Đ, xã H, huyện Tr, tỉnh Nam Định. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 25/01/2021, Đỗ Văn T đi qua khu vực công trường xây dựng bờ sông Nhuệ, sau Tòa nhà chung cư H, khu đô thị L, thuộc Tổ M, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội thì nhìn thấy 05 thanh sắt hình chữ H của Công ty T để ở công trường xây dựng. T quan sát thấy không có người trông giữ số sắt trên nên nảy sinh ý định trộm cắp. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T gọi điện cho Vũ Viết Th kể về việc nhìn thấy 05 thanh sắt nêu trên và rủ Th cùng đi trộm cắp, Th đồng ý và hẹn T đến 03 giờ 30 phút ngày 26/01/2021 gặp nhau để cùng đi. Tiếp đó, Th gọi điện rủ Nguyễn Trung Đ đi trộm cắp cùng Th và T, Đông đồng ý.

Khoảng 03 giờ ngày 26/01/2021, T ngủ dậy rủ thêm vợ là Đoàn Thị Thu H đi trộm sắt cùng, rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Hon-da Lead biển kiểm soát 29M1- 407.78 chở Hà đi đến địa điểm đã hẹn gặp nhau với Th, thì thấy Th và Đông đang ngồi đợi trên xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave RSX biển kiểm soát 29Y5-095.81. Sau đó, T chở Hà, Th chở Đông đi đến vị trí để 05 thanh sắt mà T nhìn thấy trước đó. Hà ở ngoài cảnh giới, còn T, Th và Đông vào trong đem 04 thanh sắt ra ngoài. Tiếp đó,Th chở Đông cầm theo 02 thanh sắt, T chở Hà cầm theo 02 thanh sắt đã trộm cắp được đến tập kết ở khu vực vỉa hè gần cửa hàng mua bán sắt vụn của chị Ngô Thị H sinh năm 1989, ở khu vực vòng xuyến ngã ba giữa đường Cienco5 đi Phúc La với đường Văn Phú đi Lê Trọng Tấn. Các đối tượng giao cho Hà trông 04 thanh sắt trên, còn Th, T và Đông tiếp tục quay lại vị trí để thanh sắt còn lại. T và Th đứng ngoài cảnh giới, Đông vào đem nốt thanh sắt còn lại mang ra, rồi cả ba quay lại chỗ Hà. Sau đó, các đối tượng đem 05 thanh sắt trộm cắp được nêu trên vào cửa hàng chị Hiên. T nói dối chị Hiên là sắt thừa của gia đình mình đem bán. Do tin lời T nên chị Hiên đã đồng ý mua toàn bộ 05 thanh sắt trên với giá tổng cộng 1.500.000 đồng. Toàn bộ số tiền trên, T vẫn cầm chưa chia cho các đối tượng còn lại. Đến khoảng 5 giờ cùng ngày, khi cả nhóm đi về tới khu vực cổng trào Xa La, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội bị lực lượng công an kiểm tra hành chính, cả nhóm không xuất trình được giấy tờ tùy thân nên bị đưa về trụ sở làm việc. Tại đây, T, Hà, Th và Đông xin đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Ngày 26/01/2021, sau khi phát hiện bị mất 05 thanh sắt, Công ty T đã ủy quyền cho anh Nguyễn Thanh V, sinh năm 1981- Chỉ huy trưởng công trường xây dựng nêu trên đến cơ quan công an trình báo sự việc và thực hiện các thủ tục pháp luật liên quan đến vụ việc trên.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ:

- Thu giữ do Đỗ Văn T giao nộp: 1.500.000 đồng, gồm ba tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành mệnh giá 500.000 đồng và 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Lead, màu đỏ-đen, biển kiểm soát 29M1-407.78 cùng đăng ký xe mang tên Vũ Thúy Q.

- Thu giữ do Vũ Viết Th giao nộp: 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave RSX, màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 29Y5-095.81, số khung BY 467148; Số máy JC43E6420610 cùng đăng ký xe mang tên Phạm Văn Th;

- Thu giữ do chị Ngô Thị H giao nộp 05 thanh sắt hình chữ H (loại SS400- POSCO SS VINA), gồm: 01 thanh sắt kích thước (123x20x01)cm; 01 thanh sắt kích thước (115x20x01)cm; 01 thanh sắt kích thước (106x20x01)cm; 01 thanh sắt kích thước (97x20x01)cm; 01 thanh sắt kích thước (75x20x01)cm.

Tại kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 26/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận: 05 thanh sắt hình chữ H nêu trên trị giá 2.313.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ số tài sản bị trộm cắp là vật chứng đã thu giữ nêu trên cho Công ty T. Sau khi nhận lại tài sản, đại diện ủy quyền của Công ty không yêu cầu các đối tượng bồi thường thêm khoản nào khác.

Tại bản cáo trạng số 86/2021/HSST ngày 09/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố các bị cáo Đỗ Văn T, Vũ Viết Th, Nguyễn Trung Đ và Đoàn Thị Thu H về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, xin tòa xem xét giảm hình phạt để bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình và xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đối với các bị cáo về tội Trộm cắp tài sản. Nhận định vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn. T là người khởi sướng, rủ các bị cáo Th, H đi trộm tài sản, Th rủ Đ. Tính chất vụ án ít nghiêm trọng. Tài sản đã được thu hồi. Giá trị chiếm đoạt tài sản không lớn.

Bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã đầu thú; năm 2009 có 01 tiền án về tội Đánh bạc đã được xóa án, đã nộp tiền thu lời bất chính.

Bị cáo Hà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã đầu thú, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhân thân tốt. T, H có nơi cư trú rõ ràng. Xét các bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phạt tù giam đối với các bị cáo T, Hà mà cho các bị cáo được hưởng án treo.

Bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã đầu thú; có nhân thân xấu, phạm tội lần này thuộc trường hợp “tái phạm” nên áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo.

Bị cáo Đông thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã đầu thú; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; nhân thân tốt nên áp dụng hình phạt thấp hơn bị cáo Th.

Đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 (đầu thú, tự nguyện nộp tiền thu lời bất chính) Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51; điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Viết Th từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51;

Điều 38; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung Đ từ 05 tháng 10 ngày tù đến 06 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Thu H từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

Xét các bị cáo đều không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên không xét và đề nghị trả lại cho bị cáo Nguyễn Trung Đ 800.000 đồng; Trả lại bị cáo Đỗ Văn T số tiền 800.000 đồng ; Trả lại bị cáo Đoàn Thị Thu H (anh T nộp thay) số tiền 800.000 đồng tiền khắc phục hậu quả, đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông.

- Về vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tiền thu lời bất chính 1.500.000 đồng và 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Lead, màu đỏ-đen, biển kiểm soát 29M1- 407.78, đăng ký xe mang tên Vũ Thúy Q đã thu giữ của Đỗ Văn T.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave RSX, màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 29Y5-095.81, số khung BY 467148; Số máy JC43E6420610 cùng đăng ký xe mang tên Phạm Văn Th. Cơ quan điều tra đã đăng báo An ninh thủ đô 03 số vào các ngày 16, 19, 18/2021 căn cứ Điều 228 Bộ luật dân sự, tuyên sau 01 năm kể từ ngày đăng báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hà Đông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 3 giờ 30 phút đến 5 giờ ngày 26/01/2021, tại công trường xây dựng bờ sông N, đoạn thuộc khu đô thị L, tổ M, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội, lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản, Đỗ Văn T, Vũ Viết Th, Nguyễn Trung Đ và Đoàn Thị Thu H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 05 thanh sắt hình chữ H (loại SS400-POSCO SS VINA) của Công ty T, trị giá 2.313.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được số tài sản trên, các bị cáo đem bán được cho chị Ngô Thị H được 1.500.000 đồng. T cầm tiền, chưa chia cho các bị cáo. Cùng ngày bị cáo bị lực lượng công an kiểm tra hành chính, các bị cáo đã đầu thú khai nhận hành vi phạm tội.

Hành vi lét lút chiếm đoạt 05 thanh sắt trị giá 2.313.000 đồng của các bị cáo đã thỏa mãn dấu hiệu của tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội, cần có hình phạt phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Đánh giá vai trò phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo để cá thể hóa hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, tuy giữa các bị cáo không có sự phân công vai trò nhưng cùng chung mục đích. Trong vụ án này bị cáo T là người khởi xướng, khi phát hiện ra 05 thanh sắt của Công ty T để ở công trường xây dựng, bị cáo T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. T rủ bị cáo Th và Hà là vợ bị cáo, Th rủ Đông. T trực tiếp lấy sắt để đem bán cho chị Ngô Thị H, tiền bán sắt được 1.500.000 đồng T cầm chưa kịp chia cho các bị cáo. Năm 2009 bị cáo bị xử phạt Cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, đã xóa án. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã ra đầu thú; giá trị tài sản chiếm đoạt thấp; đã nộp lại số tiền thu lời bất chính nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 (đầu thú, tự nguyện nộp lại tiền thu lời bất chính) Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Th, Đông vai trò ngang nhau là người trực tiếp vào lấy sắt. cùng bị cáo T đem đi bán. Bị cáo Hà là người cảnh giới, đi bán bắt cùng các bị cáo khác. Th, Đông, Hà chưa được T chia tiền bán sắt.

Bị cáo Th đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; ra đầu thú nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu đã 02 lần bị xử phạt về tội Trộm cắp tài sản. Bản án năm 2014 đã được xóa án, bản án năm 2018 chưa được xóa án, lần phạm tội này xác định “tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Đ, H đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đ, H nhân thân chưa có tiền án tiền sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã ra đầu thú nên các bị cáo Đ, H được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, I khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo Đ, H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi trả người bị hại. Căn cứ vào vai trò phạm tội, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của các bị cáo thấy rằng: Bị cáo T có 1 tình tiết giảm nhẹ quy định ở khoản 1 Điều 51; có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định ở khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

bản án năm 2009 tội Đánh bạc bị xử phạt Cải tạo không giam giữ nhưng đã được xóa án. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo H có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo T, H là hai vợ chồng trong cùng vụ án, có nơi cư trú rõ ràng. Đối chiếu Điều 65 của Bộ luật hình sự quy định về án treo, Điều 2 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP quy định về điều kiện cho người bị kết án phạt tù cho người được hưởng án treo của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 15/5/2018 thì các bị cáo T, H có đủ điều kiện được hưởng án treo nên cho các bị cáo T, H được hưởng án treo cũng đảm bảo mục đích của hình phạt. T chịu hình phạt cao hơn H.

Bị cáo Đ đang bị tạm giam, tính đến ngày xét xử bị cáo đã tạm giam được 05 tháng 10 ngày tù. Thấy rằng, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Thời gian tạm giam cũng đủ để bị cáo nhận thức hành vi và giáo dục pháp luật đối với bị cáo nên xử bị cáo bằng thời hạn tạm giữ tạm giam 05 tháng 10 ngày tù cũng là phù hợp. Xác định bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù. Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Bị cáo Th nhân thân xấu, chưa xóa án, lại tiếp tục phạm tội cùng loại thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung và chịu hình phạt cao hơn các bị cáo khác.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định, tài sản đã được thu hồi, nộp lại số tiền thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo cũng là phù hợp.

[3].Về trách nhiệm dân sự: Công ty T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Tòa không xét.

Các bị cáo Nguyễn Trung Đ, Đỗ Văn T, Đỗ Thị Thu H mỗi bị cáo tự nguyện nộp 800.000 đồng tại cơ quan thi hành án để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, Công ty không có yêu cầu bồi thường gì nữa nên trả lại số tiền trên cho các bị cáo.

Chị Ngô Thị H là người mua sắt đã tự nguyện nộp lại 5 thanh sắt mua của các bị cáo. Khi mua chị Hiên cũng không biết đấy là tài sản do các bị cáo phạm tội mà có. Chị H cũng không yêu cầu các bị cáo phải trả chị H số tiền mà chị đã mua sắt hết 1.500.000 đồng nên Tòa không xét.

[4].Về xử lý vật chứng:

- Bị cáo Đỗ Văn T giao nộp 1.500.000 đồng tiền thu lời bất chính nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Bị cáo Đỗ Văn T giao 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Lead, màu đỏ-đen, biển kiểm soát 29M1- 407.78, đăng ký xe mang tên Vũ Thúy Q. Bị cáo khai nhờ anh Học mua hộ, giá 15.000.000 đồng. Anh Phùng Xuân H khai anh là người mua hộ xe cho T, mua của chị Vũ Thúy Q. Chị Q khai đã bán chiếc xe trên cho anh Học. Xe không có trong tàng thư vật chứng. Xét bị cáo đã sử dụng xe là tài sản của bị cáo làm phương tiện phạm tội nên tịch thu xe sung quỹ Nhà nước.

- Bị cáo Vũ Viết Th giao nộp 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave RSX, màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 29Y5-095.81, số khung BY 467148; Số máy JC43E6420610 cùng đăng ký xe mang tên Phạm Văn Th. Th mang chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội. Anh Th khai đã bán chiếc xe trên cho một người không quen biết, không viết giấy bán xe. Th khai xe của Th. Cơ quan điều tra đã đăng báo 3 số để tìm chủ sở hữu trên báo An ninh thủ đô. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật dân sự sau khi đăng báo 3 số liên tiếp thì 1 năm sau chiếc xe trên sẽ sung quỹ Nhà nước

[5].Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo Đỗ Văn T, Vũ Viết Th, Nguyễn Trung Đ, Đoàn Thị Thu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Văn T.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Viết Th.

Xử phạt bị cáo Vũ Viết Th 07 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/01/2021.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trung Đ.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung Đ 05 tháng 10 ngày tù. Thời hạn tù bằng thời hạn tạm giữ, tạm giam. Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Trung Đ, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đoàn Thị Thu H.

Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Thu H 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đỗ Văn T, Đoàn Thị Thu H cho Ủy ban nhân dân xã Kim Đường, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu các bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo được hưởng án treo vắng mặt nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

2.Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác nên tòa không xét.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Trung Đ 800.000 đồng đã nộp tại biên lai số 0004603 ngày 04/3/2021; Trả lại bị cáo Đỗ Văn T số tiền 800.000 đồng đã nộp tại biên lai số 0004604 ngày 04/3/2021; Trả lại bị cáo Đoàn Thị Thu H (anh T nộp thay) số tiền 800.000 đồng đã nộp tại biên lai số 0004602 ngày 04/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 228 của Bộ luật dân sự.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 1.500.000 đồng (theo biên lai nộp tiền ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án quận Hà Đông, người nộp Lê Xuân Trường – Công an quận Hà Đông).

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Lead, màu đỏ-đen, biển kiểm soát 29M1- 407.78, đăng ký xe mang tên Vũ Thúy Q.

- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave RSX, màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 29Y5-095.81, số khung BY 467148; Số máy JC43E6420610 cùng đăng ký xe mang tên Phạm Văn Th. Cơ quan điều tra đã đăng báo An ninh thủ đô 03 số vào các ngày 16, 19, 18/4/2021. Sau 01 năm kể từ ngày đăng báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/5/2021 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331: Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 155/2021/HSST

Số hiệu:155/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về