Bản án về tội trộm cắp tài sản số 377/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 377/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 323/2021/HSST ngày 12/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 395/2021/QĐXXST-HS ngày 09/9/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến D, giới tính: Nam; sinh năm 1985; nơi sinh: Thanh Hóa; Thường trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn C và bà Đoàn Thị H; Tiền án: 02 - Theo Bản án số 13/2016/HSST ngày 11/01/2016, của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Theo Bản án số 131 ngày 30/5/2019, của Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2020; Tạm giam, tạm giữ từ ngày: 04/5/2021; Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị hại: anh Nguyễn Hồi Sinh H; Sinh năm 1991; Địa chỉ: A đường B, khu phố C, phường D, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài, khoảng 06 giờ 45 phút, ngày 04/5/2021, Nguyễn Tiến D đi bộ vào trước bãi xe containe đường số 1, Chợ Đầu Mối nông sản Thủ Đức, khu phố 5, phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức tìm tài sản sơ hở để lấy trộm. D phát hiện 01 xe mô tô hiệu Well kiểu dáng xe Dream, biển số 76M4 – 4917 kéo theo rơ móc tự chế của anh Nguyễn Hồi Sinh H đang dựng tại trước bãi xe container, không có người trông coi. D dùng tay đẩy lùi xe mô tô biển số 76M4 – 4917 kéo theo rơ móc tự chế ra đường số 1 rồi ngồi lên xe mô tô nổ máy, điều khiển xe mô tô kéo theo rơ móc tự chế đi vào hướng trong chợ. Ngay lúc này, anh Hận ra lấy xe mô tô thì phát hiện sự việc trên nên đuổi theo Nguyễn Tiến D và cùng với anh Đỗ Quang Thìn là bảo vệ của Chợ đầu mối nông sản Thủ Đức bắt giữ Nguyễn Tiến D cùng tang vật giao Công an phường Tam Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản số 97-KV3/KLĐG-HĐĐGTS ngày 04/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Đức, kết luận 01 xe mô tô hiệu Well kiểu dáng Dream, biển số 76M4-4719 kéo theo rờ móc tự chế có giá trị 2.500.000 đồng.

- Vật chứng vụ án: 01 xe máy hiệu Well kiểu dáng xe Dream, biển số 76M4- 4719; 01 rơ móc xe lôi bằng sắt. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã trả lại cho anh Hận.

- Trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Hồi Sinh H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 280/CT – VKS ngày 11/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến D về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù.

Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: vì mục đích vụ lợi, khoảng 06 giờ 45 phút, ngày 04/5/2021, tại trước bãi xe containe, đường số 1, trong Chợ Đầu Mối nông sản Thủ Đức, thuộc khu phố 5, phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức. Nguyễn Tiến D đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô biển số 76M4 – 4917 kéo theo rơ móc tự chế có giá trị 2.500.000 đồng của anh Nguyễn Hồi Sinh H thì bị bắt quả tang.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị nêu trên mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; Bản thân bị cáo có 02 tiền án chưa được xoá án tích theo Bản án số 13/2016/HSST ngày 11/01/2016, của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Theo Bản án số 131 ngày 30/5/2019, của Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2020. Như vậy, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; Đã bị xử lý nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện thái độ coi thường pháp luật nên cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình tố tụng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Chưa gây ra thiệt hại về tài sản là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác, nên không xem xét. [5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam, tạm giữ 04/5/2021.

2- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án để tính án phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 377/2021/HS-ST

Số hiệu:377/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về