Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2022/TLST-HS, ngày 11 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2022/QĐXXST- HS, ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

Bị cáo thứ nhất: Trương Quốc H, sinh ngày 20/7/1988 (có mặt).

Nơi cư trú: Thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn H (chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1965; Anh chị em ruột:

Có 02 người, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1991; vợ Võ Thị Tuyết O, sinh năm 1991 (đã ly hôn); Con có 02 người, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2015;

- Tiền án: Có 01 tiền án. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2020, Trương Quốc H bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong vào ngày 27 tháng 02 năm 2021. Đến ngày 30 tháng 3 năm 2022, bị cáo H chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản.

- Tiền sự: Có 03 tiền sự.

+ Ngày 24 tháng 11 năm 2021, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt.

+ Ngày 23 tháng 12 năm 2021, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt.

+ Ngày 29 tháng 4 năm 2022, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt (Tiền sự này có sau khi phạm tội).

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ngày 30 tháng 3 năm 2022 đến ngày 02 tháng 4 năm 2022 chuyển tạm giam cho đến nay.

Bị cáo thứ hai: Dương Bảo Đ, sinh ngày 24/12/1998 (có mặt).

Nơi cư trú: Thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương T, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1980; Anh chị em ruột: Không có; Bị cáo chưa có vợ, con.

- Tiền án: Có 02 tiền án.

+ Ngày 14 tháng 01 năm 2019, Dương Bảo Đ bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt và các quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí.

+ Ngày 24 tháng 8 năm 2020, Dương Bảo Đ bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, chấp xong vào ngày 15 tháng 8 năm 2021. Đến ngày 30 tháng 3 năm 2022, bị cáo Đ chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản.

- Tiền sự: Có 03 tiền sự.

+ Ngày 21 tháng 11 năm 2021, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt.

+ Ngày 10 tháng 02 năm 2022, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt.

+ Ngày 29 tháng 4 năm 2022, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt (Tiền sự này có sau khi phạm tội).

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ngày 30 tháng 3 năm 2022 đến ngày 02 tháng 4 năm 2022 chuyển tạm giam cho đến nay.

Bị hại: ông Huỳnh Kim T, sinh năm 1969 (yêu cầu xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp C, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh (có mặt).

Người làm chứng:

1/. ông Phan Văn T, sinh năm 1972 (yêu cầu xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp C, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

2/. ông Nguyễn Quốc C, sinh năm 1985 (yêu cầu xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp L, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

3/. ông Đoàn Văn N, sinh năm 1974 (yêu cầu xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp L, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án bị cáo H và bị cáo Đ thực hiện vụ trộm cắp tài sản được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 30/3/2022, bị cáo Dương Bảo Đ điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 84B1–869.25, nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn cam đen chở bị cáo Trương Quốc H trên Quốc lộ 53 theo hướng từ thành phố Trà Vinh về nhà tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Trên đường đi, bị cáo Trương Quốc H nảy sinh ý định và rủ bị cáo Dương Bảo Đ đi trộm cam trái của người khác để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì bị cáo Đ đồng ý và điều khiển xe về nhà của bị cáo H để lấy công cụ. Tại đây, bị cáo H trực tiếp đi vào nhà lấy 01 cây kềm cắt kiểng, cán màu xanh, dài 21cm và 02 cái bao nilon màu trắng rồi cùng bị cáo Đ đi đến vườn cam của ông Huỳnh Kim T, sinh năm 1969, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh để trộm cam.

Khi đến nơi, bị cáo Dương Bảo Đ dựng xe mô tô mang biển kiểm soát 84B1 – 869.25 trên bờ kênh rồi cùng bị cáo H đi bộ vào vườn cam của ông Huỳnh Kim T, cách vị trí dựng xe khoảng 300m. Quan sát xung quanh không có người trông coi nên bị cáo Trương Quốc H cất giấu 02 bao nilon ở bụi cỏ và cùng bị cáo Đ đi vào vườn cam, bị cáo H trực tiếp dùng kềm cắt trái cam từ trên cây xuống, bị cáo Đ đi theo và dùng vạt áo thun phía trước ngực hứng những trái cam vừa cắt được gom lại một chỗ. Khi cả hai cắt trộm được khoảng 10 phút thì bị ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972, nơi cư trú ấp C, xã B, huyện C đi thăm vườn phát hiện, truy hô và cùng ông Huỳnh Kim T, ông Nguyễn Quốc C, sinh năm 1985, nơi cư trú ấp L, xã N, huyện C đang cắt cỏ gần đó bắt giữ bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ cùng tang vật, sau đó trình báo đến Công an xã A. Công an xã A tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ 17,5kg (mười bảy phẩy năm kí lô gam) cam trái, loại cam đã chín; 01 cây kềm bằng kim loại, cán màu xanh loại kềm cắt kiểng, chiều dài 21cm; 02 bao nilon màu trắng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 84B1–869.25, nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn cam đen, số máy 5C64000834, số khung C6407Y000834.

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C yêu cầu định giá tài sản đối với 17,5kg cam (loại cam đã chín). Tại kết luận định giá tài sản số 07/KL-ĐGTS ngày 01 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận tài sản được yêu cầu định giá có giá trị là 245.000 đồng (hai trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

Mặc dù tài sản không đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng qua điều tra xác định được bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên hành vi của bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra, bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ khai nhận ngoài lần phạm tội bị bắt quả tang ngày 30 tháng 3 năm 2022, thì đã đến vườn cam của ông Huỳnh Kim T trộm cắp 02 lần vào ngày 20 và ngày 23 tháng 3 năm 2022 với số cam cắt được lần lượt là 40kg (bốn mươi kí lô gam) và 42kg (bốn mươi hai kí lô gam), bán cho một người phụ nữ không rõ nhân thân, địa chỉ với tổng số tiền là 984.000 đồng (chín trăm tám mươi bốn nghìn đồng), số tiền trên cả hai tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C yêu cầu định giá tài sản đối với 40kg cam (loại cam đã chín). Tại kết luận định giá tài sản số 12/KL-ĐGTS ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận tài sản được yêu cầu định giá có giá trị là 520.000 đồng (năm trăm hai mươi nghìn đồng).

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C yêu cầu định giá tài sản đối với 42kg cam (loại cam đã chín). Tại kết luận định giá tài sản số 13/KL-ĐGTS ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận tài sản được yêu cầu định giá có giá trị là 546.000 đồng (năm trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).

- Về vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã thu giữ:

+ 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 84B1– 869.25, nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn cam đen, số máy 5C64000834, số khung C6407Y000834;

+ 01 cây kềm bằng kim loại, cán màu xanh loại kềm cắt kiểng, chiều dài 21cm;

02 bao nilon màu trắng;

+ 17,5kg (mười bảy phẩy năm kí lô gam) cam, loại cam trái đã chín.

+ 01 (một) áo thun tay dài, màu đen, bên trong cổ áo có gắn phù hiệu chữ “T-M NEW FASHION”.

- Việc xử lý vật chứng: Đã trả lại 17,5kg (mười bảy phẩy năm kí lô gam) cam, loại cam đã chín cho bị hại Huỳnh Kim T.

Tại Bản cáo trạng số: 26/CT-VKS-HS, ngày 09/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ về tội trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ, hoàn toàn thống nhất với nội dung Bản cáo trạng của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện C và thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ đã có hành vi lén lút 03 lần cắt trộm 99,5kg cam (loại cam đã chín) của ông Huỳnh Kim T, sinh năm 1969, nơi cư trú ấp C, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Giá trị tài sản tại thời điểm định giá 03 lần là 1.229.000 đồng (Một triệu hai trăm hai mươi chín nghìn đồng). Mặc dù tài sản bị thiệt hại không đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng qua điều tra xác định bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C: Sau khi phân tích các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Vị đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Quốc H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 30/3/2022.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Bảo Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 30/3/2022.

Ngoài ra, Vị còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Qua quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo có mặt tại phiên tòa không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa Vị đại diện Viện kiểm sát và các bị cáo không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và giới hạn xét xử của Tòa án theo Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa ông Huỳnh Kim T là bị hại; ông Phan Văn T, ông Nguyễn Quốc C, ông Đoàn Văn N là người làm chứng, tất cả đều vắng mặt có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng thời thống nhất với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, tỉnh Trà Vinh. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1] Lời nhận tội của bị cáo Trương Quốc H, bị cáo Dương Bảo Đ tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra Công an huyện C thu thập có được.

Do vậy, Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh quyết định truy tố bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ về tội trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là phù hợp với qui định của pháp luật, không oan, không sai.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ là nguy hiểm cho xã hội; Bởi vì, tài sản của công dân bao gồm tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, phương tiện đi lại, điện thoại, xe,… là do quá trình lao động mới có được. Bị cáo là người có đủ sức khỏe lao động tạo ra nguồn thu nhập, phục vụ nhu cầu cuộc sống bản thân và gia đình, nhưng bị cáo không lo chí thú làm ăn, lợi dụng sự sơ hở quản lý tài sản của chủ sở hữu, thực hiện hành vi lén lúc đối với chủ sở hữu để chiếm đoạt tài sản. Cụ thể từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ đã có hành vi lén lút 03 lần cắt trộm 99,5kg cam (loại cam đã chín) của ông Huỳnh Kim T, sinh năm 1969, nơi cư trú ấp C, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Giá trị tài sản tại thời điểm định giá 03 lần là 1.229.000 đồng (Một triệu hai trăm hai mươi chín nghìn đồng). Mặc dù tài sản bị thiệt hại không đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng qua điều tra xác định bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[3] Tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm hại bị nghiêm trị. Bản thân các bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ tham lam, tư lợi, muốn có tiền không phải bỏ ra công sức lao động.

Mặc dù là đồng phạm giãn đơn, nhưng cần xem xét từng hành vi và vai trò phạm tội của từng bị cáo để quyết định hình phạt đúng quy định của Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Trương Quốc H: Bản thân trong độ tuổi lao động nhưng không chí thú làm ăn tạo thu nhập ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình, lười biếng lao động, nghiện ma túy, có nhiều tiền án, tiền sự. Vào ngày 30/3/2022 bị cáo H nảy sinh ý thức trộm cắp tài sản, rủ rê lối kéo bị cáo Dương Bảo Đ cùng nhau thực hiện tội phạm, bị cáo là người chuẩn bị công cụ phạm tội và trực tiếp sử dụng kiềm cắt trộm 17,5 kg cam của bị hai. Tuy hành vi vi phạm ngày 30/3/2022 của bị cáo H chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (tài sản chiếm đoạt trị giá 245.000 đồng) nhưng ngày 11/6/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm tù giam về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, tiếp tục phạm tôi.

Ngoài ra bị cáo có 03 tiền sự: Ngày 24 tháng 11 năm 2021, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt; Ngày 23 tháng 12 năm 2021, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt; Ngày 29 tháng 4 năm 2022, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt (Tiền sự này có sau khi phạm tội). Thể hiện bị cáo rất xem thường pháp luật và thuộc thành phần khó cảo tạo, cần phải xử phạt nghiêm.

Đối với bị cáo Dương Bảo Đ: Lười biếng lao động, tụ tập, lêu lỏng, nghiện ma túy lại không có việc làm. Vào ngày 30/3/2022, khi được bị cáo Trương Quốc H rủ trộm cắp tài sản của bị hại Huỳnh Kim T bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, bị cáo Đ đồng ý điều khiển xe mô tô chở bị cáo H về nhà H lấy công cụ. Tiếp đó, bị cáo Đ chở bị cáo H đến khu vườn trồng cam của bị hại để bị cáo H cắt trộm cam chín còn bị cáo gom lại 01 chỗ. Tuy hành vi vi phạm ngày 30/3/2022 của bị cáo Đ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (tài sản chiếm đạt trị giá 245.000 đồng) nhưng vào ngày 24/8/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội.

Ngoài ra bị cáo có 03 tiền sự: Ngày 21 tháng 11 năm 2021, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt; Ngày 10 tháng 02 năm 2022, bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt; Ngày 29 tháng 4 năm 2022, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định xử phạt. (Tiền sự này có sau khi phạm tội). Thể hiện bị cáo rất xem thường pháp luật và thuộc thành phần khó cải tạo, cần phải xử phạt nghiêm.

Bên cạnh đó, bị cáo H và bị cáo Đ khai nhận ngoài lần trộm cam vào ngày 30/3/2022, cả hai còn 02 lần trộm cắp tài sản của bị hại Huỳnh Kim T cụ thể vào ngày 20/3/2022 và ngày 23/3/2022 bị cáo Đ và bị cáo H vào vườn của ông T cắt trộm lần lượt 40kg và 42kg cam trái chín. Sau đó, Trương Quốc H mang đến chợ huyện C, tỉnh Trà Vinh bán cho cùng một người phụ nữ không rõ nhân thân, địa chỉ với tổng số tiền là 984.000 đồng và cả 02 đã mua ma túy sử dụng hết. Tại bản kết luận định giá tài sản số: 12, 13/KL-ĐGTS, ngày 25/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện C kết luận 40kg cam, loại cam chín tại thời điểm bị xâm hại vào ngày 20/3/2022 trị giá là 520.000 đồng và 42kg cam chín tại thời điểm xâm hại ngày 23/3/2022 có giá là 546.000 đồng. Do định giá tài sản trong 02 lần trộm cắp nêu trên không đủ định lượng nên không có căn cứ xử lý hình sự.

[4] Tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện C thời gian gần đây xảy ra liên tục, gây bức xúc trong nhân dân. Để góp phần ổn định tình hình trật tự tại địa phương và đấu tranh ngăn ngừa tội phạm. Hội đồng xét xử cần lên cho bị cáo H và bị cáo Đ một mức án tương xứng với hành vi của các bị cáo và tính chất của vụ án, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại. Đây là những căn cứ để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do đó ý kiến của Vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ theo quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại ông Huỳnh Kim T đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với bà Nguyễn Thị Thanh L là người trực tiếp quản lý xe mô tô mang biển kiểm soát 84B1–869.25, nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn cam đen, số máy 5C64000834, số khung C6407Y000834. Việc bị cáo Dương Bảo Đ sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện chở bị cáo Trương Quốc H đi trộm cắp tài sản của người khác thì bà L hoàn toàn không biết. Hành vi của Nguyễn Thị Thanh L không cấu thành tội phạm.

- Đối với người phụ nữ khoảng 40 tuổi thu mua cam trái, bị cáo Trương Quốc H trình bày không rõ họ tên, địa chỉ nên chưa làm việc được. Khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

- Đối với người đàn ông lạ mặt bán ma túy tại thành phố Trà Vinh, bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ trình bày không rõ họ tên, địa chỉ nên chưa làm việc được. Khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã thu giữ:

+ 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 84B1– 869.25, nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn cam đen, số máy 5C64000834, số khung C6407Y000834 không liên quan đến hành vi phạm tội giao trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh L;

+ 01 cây kềm bằng kim loại, cán màu xanh loại kềm cắt kiểng, chiều dài 21cm;

02 bao nilon màu trắng; 01 (một) áo thun tay dài, màu đen, bên trong cổ áo có gắn phù hiệu chữ “T-M NEW FASHION” là vật chứng của vụ án nghĩ nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Quốc H và bị cáo Dương Bảo Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trương Quốc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 30/3/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Dương Bảo Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 30/3/2022.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại ông Huỳnh Kim T đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường, nên không xem xét.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 cây kềm bằng kim loại, cán màu xanh loại kềm cắt kiểng, chiều dài 21cm; 02 bao nilon màu trắng; 01 (một) áo thun tay dài, màu đen, bên trong cổ áo có gắn phù hiệu chữ “T-M NEW FASHION”.

Giao trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh L: 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 84B1–869.25, nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn cam đen, số máy 5C64000834, số khung C6407Y000834.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Buộc bị cáo Trương Quốc H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Buộc bị cáo Dương Bảo Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 06; Điều 07 và Điều 09 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2022/HS-ST

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về