Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 06 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 06 năm 2021, đối với bị cáo:

Tống Đức H; sinh năm 1997; tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: Lao động tự do; nơi cư trú: thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Đức H và bà Vũ Thị H; tiền án: không;

Tiền sự: ngày 02/08/2020, bị Công an xã Hoạt Giang, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/03/2021 cho đến nay. Có mặt.

* Bị hại:

1. Ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1960 (Có mặt) và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1963 (Vắng mặt). Cùng địa chỉ: thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh Trần Văn H, sinh năm 1987; địa chỉ: thôn T, xã Y, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. anh Đỗ Văn K, sinh năm 1978; địa chỉ: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

2. Ông Phạm Đình O, sinh năm 1959; địa chỉ: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Mai Quốc C, sinh năm 1979; địa chỉ: thôn 6, phường Q, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2. Anh Lê Văn C, sinh năm 1989; địa chỉ: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

3. Chị Vũ Thị H, sinh năm 1976; địa chỉ: thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 06/01/2021 đến ngày 12/06/2021, Tống Đức H đã thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn xã H và xã Y, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Vụ thứ nhất: khoảng 11 giờ ngày 06/01/2021, Tống Đức H đi bộ từ nhà ra đường đê đến trang trại của gia đình ông Vũ Văn Đ, thôn S, xã H. Không thấy có người ở trang trại, H lén lút vào căn lều trong trang trại rồi lấy hai bình ắc quy nhãn hiệu Dongnai, loại 12V-28Ah, mang đến địa điểm thu mua sắt vụn của ông Phạm Đình O để bán với giá 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Sau đó, H dùng số tiền này mua ma túy để sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 07/01/2021, H xin tiền của mẹ là bà Vũ Thị H để chuộc lại hai bình ắc quy đã bán rồi mang về trả cho vợ ông Đ. Bà Nguyễn Thị P (vợ ông Đ) đã giao nộp lại hai bình ắc quy cho Công an xã Hà Bắc để phục vụ công tác điều tra.

Vụ thứ hai: khoảng 05 giờ ngày 12/03/2021, H đi bộ từ cầu Cừ, thuộc xã Yên Dương về nhà ở thôn S, xã Hà Bắc. Khi đến thôn T, xã Y, H thấy tại cột hè của gia đình anh Trần Văn H có treo một lồng chim, bên trong có một con chim chích chòe, nên nảy sinh ý định trộm cắp. H trèo qua tường rào nhà anh H lấy lồng chim cùng một con chim chích chòe bên trong lồng, rồi trèo qua tường rao để về nhà. Đến buổi trưa cùng ngày, H xác lồng chim và chim ra đoạn cầu vượt đứng, rồi gặp anh Đỗ Văn K dừng xe hỏi mua chim. H bán cho anh K cả lồng và chim với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Sau đó, H sử dụng số tiền này để tiêu xài cá nhân hết.

Vật chứng của vụ án: 01 (một) lồng chim làm bằng gỗ, đã bị hư hỏng, bên ngoài bọc vải màu đỏ; 02 Bình ắc quy nhãn hiệu Dongnai, loại 12V-28Ah, đã qua sử dụng.

Tại các Bản kết luận định giá tài sản số 09/HĐĐG ngày 12/03/2021 và số 19/HĐĐG ngày 02/04/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Hà Trung, kết luận: 02 (hai) bình ắc quy nhãn hiệu Dongnai loại 12V-28Ah, đã qua sử dụng có giá trị là 900.000đ (chín trăm nghìn đồng); 01 (một) lồng chim được làm bằng tre, đã qua sử dụng có giá trị là 100.000đ (một trăm nghìn đồng); 01 (một) con chim chích chòe màu đen trắng, có giá trị là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Cáo trạng số 39/CT-VKSHT ngày 07 tháng 06 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Tống Đức H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Tống Đức H từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng; phù hợp với vật chứng thu giữ được, đủ cơ sở khẳng định: khoảng 11 giờ ngày 06/01/2021, tại căn lều ở trang trại của gia đình ông Vũ Văn Đ, thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Tống Đức H đã lén lút trộm cắp 02 bình ắc quy nhãn hiệu Dongnai, loại 12V- 28Ah, trị giá 900.000đ (chín trăm nghìn đồng). Khoảng 05 giờ, ngày 12/03/2021, tại cột hè của gia đình anh Trần Văn H, ở thôn T, xã Y, huyện H, Tống Đức H tiếp tục thực hiện trộm cắp 01 lồng chim bằng gỗ, trị giá 100.000đ (một trăm nghin đồng) và 01 con chim chích chòe, màu đen, trị giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản hai lần H trộm cắp là 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Tống Đức H đã bị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, nay lại có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng). Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, mặt khác bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời gian để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, phải phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Bị cáo đã thực hiện hai lần hành vi trộm cắp tài sản, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, sau khi chiếm đoạt được 02 bình ắc quy, bị cáo đã trả lại cho gia đình ông Vũ Văn Đ; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Bị cáo bán 02 bình ắc quy cho ông Phạm Đình O, 01 lồng chim và 01 con chim chích chòe cho anh Đỗ Văn K. Khi mua, ông O và anh K không biết đây là tài sản mà bị cáo trộm cắp, nên không có căn cứ để xử lý hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công việc ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: cơ quan điều tra đã trả 01 lồng chim làm bằng gỗ cho anh Trần Văn H; 02 Bình ắc quy nhãn hiệu Dongnai, loại 12V-28Ah cho ông Vũ Văn Đ và bà Nguyễn Thị P là phù hợp với quy định của pháp luật. Ông Đ, bà Phấn, anh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì; anh Đỗ Văn K không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã mua lồng chim và chim; Bị cáo đã xin lại 02 bình ắc quy đã bán và trả lại số tiền 250.000 đồng cho ông Phạm Đình O, ông Oai không có ý kiến gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

1. Về tội danh: Bị cáo Tống Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Tống Đức H 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 23/03/2021.

3. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc Bị cáo Tống Đức H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và Bị hại (có mặt) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại (vắng mặt) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2021/HS-ST

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về