TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 36/2024/HS-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, Thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 12/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2024/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 2 năm 2024 đối với các bị cáo: Họ và tên Tống Văn T.; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1980; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Số 7 ngõ 896/53 Phố Ng., tổ 17, phường Th., quận Hoàng Mai, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Họ và tên cha: Tống Phi H. - Đã chết; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị D. - Đã chết; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Ngày 24/10/2001, UBND thành phố H ra Quyết định đưa vào cơ sở Giáo dục số 1088/QĐ-UB đối với Tống Văn T.
- Ngoài thời hiệu.
- Năm 2001,2005 Công an quận H xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản- Ngoài thời hiệu.
- Bản án số 681/HSST ngày 30/5/2000 của Tòa án nhân dân thành phố H xử 8 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Trị giá tài sản 1.700.000 đồng- Đã xóa án tích.
-Bản án số 337/2006/HSST ngày 22/8/2006 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố H xử 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản - Đã xóa án tích
- Bản án số 171/2008/HSST ngày 28/5/2008 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố H xử 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản - Đã xóa án tích - Bản án số 05/2010/HSST ngày 18/01/2010 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố H xử 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản- Đã xóa án tích.
- Bản án số 319/2011/HSST ngày 18/7/2011 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố H xử 40 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản- Đã xóa án tích.
- Bản án số 69/2015/HSST ngày 19/3/2015 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố H xử 28 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản - Đã xóa án tích.
- Bản án số 18/2018/HSST ngày 24/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố H xử 32 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản - Đã xóa án tích.
Tạm giữ: 03/11/2023; Tạm giam: 12/11/2023; Bị cáo hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an TP. H. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Lê Quang Tr. - sinh năm 1971; Nơi ở: Số 8 ngõ 162A phố T2., phường H., quận Đống Đa, thành phố Hà nội (xin vắng mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Trần Đình Ng. - Sinh năm: 1989; HKTT: Y., huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
- Đại diện theo uỷ quyền: Ông Lê Quang Tr. - sinh năm 1971; Nơi ở: Số 8 ngõ 162A phố T2., phường H., quận Đống Đa, thành phố Hà nội (xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt lại như sau:
Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 01/11/2023, ông Lê Quang Tr. (Sinh năm:
1971; HKTT: 8/162A T2., phường H., quận Đống Đa, H - người quản lý tài sản trong nhà thờ 21 Hàm Long, H, H đi ra khu vực nhà xe của nhà thờ phát hiện 01 chiếc xe đạp TRINX S4700 màu đen của Phó xứ nhà thờ Trần Đình Ng. (Sinh năm: 1989; HKTT: Y., Ý Yên, Nam Định) được treo trên tường đã bị mất. Sau khi kiểm tra camera, ông Tr. thấy có 01 người đàn ông đội mũ lưỡi trai, mặc quần áo màu trắng lẻn vào nhà thờ và lấy trộm chiếc xe đạp của ông Ngọc. Ngày 02/11/2023, ông Trần Đình Ng. đã làm đơn ủy quyền cho ông Lê Quang Tr. là người đại diện hợp pháp đến Công an phường Phan Chu Trinh trình báo sự việc trên. Cùng ngày 02/11/2023, Tống Văn T. đến Công an phường Phan Chu Trinh đầu thú, khai nhận ngày 01/11/2023 đã trộm cắp chiếc xe đạp trong nhà thờ tại 21 Hàm Long, phường Phan Chu Trinh, quận H, H và giao nộp.
Thu giữ của Tống Văn T.:
- 01 chiếc xe đạp màu đen, vỏ bọc yên màu đỏ có số khung: 03881220, 5247696, 0640.
- 01 áo phông ngắn tay màu trắng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 177/KL-HĐĐGTS ngày 04/11/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND quận H kết luận: 01 xe đạp TRINX S4700 màu đen (đã qua sử dụng từ tháng 10/2023) trị giá 3.000.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Tống Văn T. khai: Khoảng 12 giờ ngày 01/11/2023, T. đi qua khu vực nhà thờ tại số 21 Hàm Long, quận H, H nhìn thấy 01 chiếc xe đạp treo trên tường tại khu vực để xe, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T. đi đến cổng nhà thờ, do thấy cổng không khóa nên T. mở cửa và đi vào khu vực để xe của nhà thờ, sau đó dùng hai tay nhấc chiếc xe đạp trên xuống rồi dắt xe ra khỏi nhà thờ và mang về nhà cất giấu. Ngày 02/11/2023, biết hành vi của mình đã bị phát hiện nên T. đã đến Công an phường Phan Chu Trinh đầu thú và giao nộp chiếc xe trên.
Ông Lê Quang Tr. có lời khai phù hợp với lời khai của Tống Văn T., phù hợp với camera, nội dung sự việc. Ngày 28/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận H đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho ông Lê Quang Tr. 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu Trinx S4700 màu đen. Ông Tr. đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị khác về dân sự.
Bản cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 09/1/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận H truy tố Tống Văn T. phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng, thừa nhận hành vi phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Qua xét hỏi, thẩm vấn tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tống Văn T. phạm tội Trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt Tống Văn T. từ 10 tháng tù đến 15 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên không đề nghị xem xét.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 áo phông ngắn tay màu trắng.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 01/11/2023 tại nhà thờ số 21 Hàm Long, phường Phan Chu Trinh, quận H, H, Tống Văn T. đã có hành vi trộm cắp 01 xe đạp TRINX S4700 màu đen được hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận H định giá 3.000.000 đồng của ông Trần Đình Ng. nhưng do ông Lê Quang Tr. chịu trách nhiệm trông coi, quản lý. Hiện chiếc xe trên đã được thu hồi, trao trả cho bị hại. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn quận H. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do đó cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc để giáo dục cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội, đồng thời đảm bảo tính phòng ngừa chung.
[3] Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng nhân thân bị cáo đã có nhiều tiền án vừa được xóa án tích cũng về hành vi trộm cắp tài sản nên cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo; Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan sau khi nhận lại tài sản, không có yêu cầu, đề nghị khác về dân sự nên không xét.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[6] Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 áo phông ngắn tay màu trắng (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.
[7] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[8] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Tống Văn T. phạm tội “Trộm cắp tài sản” 2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Tống Văn T. 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 11 năm 2023.
3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, không có yêu cầu, đề nghị khác về dân sự nên không xét.
4. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
5. Án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 65; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với phần liên quan, trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2024/HS-ST
Số hiệu: | 36/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về