Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 11/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:

1- Huỳnh Tiến D - sinh ngày 11/6/2005, tại VN - KH; nơi cư trú: Thôn ĐB - xã ĐL - huyện VN - tỉnh KH; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh T và bà Nguyễn Thị L ; chưa có vợ, con; tiền án - tiền sự: Không; nhân thân: Không; không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2- Huỳnh Gia H - sinh ngày 28/02/2005, tại VN - KH; nơi cư trú: Thôn TB 1 - xã ĐL - huyện VN - tỉnh KH; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Minh S và bà Huỳnh Thị B; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án - tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Bị hại:

Em Trần Lê Quang T - sinh ngày 13/7/2007; trú tại: Thôn TB 1, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH.

Người đại diện hợp pháp của em T: Ông Trần Văn M - sinh năm 1983 và bà Lê Thị Bích T1 - sinh năm 1990; cùng trú tại: Thôn TB 1, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Em T và chị T1 vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Em Huỳnh Văn K - sinh ngày 22/8/2007; trú tại: Thôn ĐB, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của em Huỳnh Văn K: Ông Huỳnh T2 - sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị L - sinh năm: 1980; Đồng trú tại: Thôn ĐB, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Bà L có mặt.

2. Em Nguyễn Văn H1 - sinh ngày 20/12/2007; trú tại: Thôn ĐB, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của em Nguyễn Văn H1: Ông Nguyễn Văn P - sinh năm 1980 và bà Phạm Thị G - sinh năm 1983; cùng trú tại: Thôn ĐB, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 ngày 31/10/2022, Huỳnh Tiến D và em ruột tên Huỳnh Văn K đi ra ghe của gia đình đang neo đậu tại suối thuộc thôn TB 1 - ĐL - VN - KH để ngủ trông coi ghe. Tại đây, sau khi biết tin D không có tiền chuộc điện thoại di động đã cầm cố thì K nói "Qua ghe của T ăn cắp đi", D đồng ý và cả hai thống nhất đến tối sẽ qua ghe gia đình Trần Lê Quang T đang neo đậu gần đó để trộm cắp điện thoại di động của T. Đến khoảng 21h00' cùng ngày, có Huỳnh Gia H và Nguyễn Văn H1 cũng đi đến ghe ngủ cùng với D, K (do trước đó K rủ đến ngủ cùng).

Khoảng 03h00' ngày 01/11/2022, D và K thức dậy, cả hai rủ H và H1 đi qua ghe của T trộm cắp điện thoại di động nhưng H và H1 không đồng ý thì D, K cùng nhau điều khiển thúng chai đi đến ghe của T. Trên đường đi, K nói cho D biết vị trí mà T hay cất giữ điện thoại di động nên khi tiếp cận ghe T, K ở lại thúng chai còn D leo lên ghe, đột nhập vào ca bin tìm tài sản trộm cắp. Nhìn thấy Trần Lê Quang T đang ngủ và phát hiện trong hủ nhựa treo trên thành ca bin của ghe có 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 11, bên trong gắn 02 Sim mạng Viettel và Mobifone nên D lén lút trộm cắp điện thoại này rồi cùng K quay về lại ghe của mình. Tại đây, D nhờ H tháo 02 Sim bên trong điện thoại ra vứt bỏ trên ghe, tiếp đến D nói với K, H và H1 mang điện thoại đem đi bán lấy tiền cùng nhau tiêu xài, tất cả đồng ý. Sau khi bàn bạc tìm nơi cất giấu thì H bảo K và H1 mang điện thoại vừa trộm cắp được cất giấu bên dưới đống lưới trước nhà ông Huỳnh H2 (nhà nội H ) thuộc thôn Tây Bắc TB1 - ĐL - VN - KH nên K và H mang điện thoại đi cất giấu rồi quay trở lại ghe của D ngủ. Đến khoảng 05h30' ngày 01/11/2022, T và Lê Thị Bích T1 (mẹ của T) đến ghe D đòi lại điện thoại nhưng cả nhóm không thừa nhận hành vi trộm cắp nên trình báo với Cơ quan Công an. Sau khi làm việc với Cơ quan Công an, tất cả D, K , H1 và H đều thừa nhận toàn bộ hành vi pham tội của mình. Đối với điện thoại Xiaomi Redmi Note 11 cùng 02 Sim đã bị mất, Cơ quan Công an đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 948/KL-TCKH.TTHS ngày 27/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vạn Ninh kết luận: Tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 11 cùng 02 Sim mạng Viettel và Mobifone của Trần Lê Quang T có tổng giá trị là 3.912.000đ (ba triệu chín trăm mười hai nghìn đồng).

Huỳnh Tiến D đã tự nguyện bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho Trần Lê Quang T, em T và chị Lê Thị Bích T1 (mẹ Thắng) không có yêu cầu gì thêm về dân sự và có đơn xin bãi nại đối với D .

Huỳnh Văn K (sinh ngày 22/8/2007) đã có hành vi cùng Huỳnh Tiến D trộm cắp tài sản của Trần Lê Quang T, Nguyễn Văn H1 (sinh ngày: 20/12/2007) có hành vi tiêu thụ tài sản do D và K phạm tội mà có. Tuy nhiên, tại thời điểm phạm tội (ngày 01/11/2022) thì K và H1 chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự nên không xử lý về mặt hình sự. Công an huyện Vạn Ninh đã ra quyết định xử phạt hành chính với hình thức "Cảnh cáo" đối với K và H1.

Đối với chiếc thúng chai mà D và K sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, qua điều tra không xác định được thúng chai của người nào, ở đâu nên không có cơ sở để xem xét, xử lý đối với hành vi này cũng như tiến hành thu giữ đối với thúng chai trên.

Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKSVN, ngày 06 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa đã truy tố để xét xử Huỳnh Tiến D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và Huỳnh Gia H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác pham tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Huỳnh Tiến D và Huỳnh Gia H đều đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

- Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo tội danh, khung hình phạt như trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Huỳnh Tiến D, tuyên phạt bị cáo D từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng;

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Huỳnh Gia H, tuyên phạt bị cáo H từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đối với chiếc thúng chai mà D và K sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, qua điều tra không xác định được thúng chai của người nào, ở đâu nên không có cơ sở để xem xét, xử lý đối với hành vi này cũng như tiến hành thu giữ đối với thúng chai trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, tuy vắng mặt bị hại em Trần Lê Quang T và người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng các bị cáo không có ý kiến hoặc yêu cầu gì về sự vắng mặt của những người này. Đồng thời, những người này đã có lời khai tại hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Vì vậy, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vạn Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Tiến D và Huỳnh Gia H đều khai nhận hành vi của mình đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng số 22/CT-VKSVN ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng hơn 03h00' ngày 01/11/2022, tại ghe của gia đình Trần Lê Quang T neo đậu tại suối thuộc thôn TB 1 - ĐL - VN - KH, Huỳnh Tiến D đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 11, bên trong gắn 02 Sim mạng Viettel và Mobifone của T, tài sản có tổng giá trị 3.912.000đ (ba triệu chín trăm mười hai nghìn đồng).

Huỳnh Gia H không hứa hẹn trước với Huỳnh Tiến D, sau khi biết được điện thoại di động mà D có được do phạm tội mà có nhưng H vẫn đồng ý giúp D tháo bỏ 02 Sim bên trong điện thoại và chỉ nơi cất giấu điện thoại di động nhằm mục đích tránh bị phát hiện và sẽ bán lấy tiền cùng nhau tiêu xài .

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự thì:

“1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Và tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Nên với hành vi trên đây của các bị cáo thì Huỳnh Tiến D và Huỳnh Gia H thì:

Bị cáo Huỳnh Tiến D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Huỳnh Gia H đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo Huỳnh Tiến D đã xâm hại quyền sở hữu về tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội ở địa phương.

Hành vi của bị cáo Huỳnh Gia H đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm; đồng thời tạo điều kiện khuyến khích cho người khác đi vào con đường phạm tội.

Chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật, đạo đức xã hội, bị cáo D đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Bị cáo H đã thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên cần phải xử lý nghiêm minh để cải tạo, giáo dục các bị cáo và ngăn ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo D đã tự nguyện sửa chữa bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, giúp bị cáo an tâm cải tạo. Mặt khác bị cáo sinh ngày 11/6/2005 đến thời điểm phạm tội ngày 01/11/2022 bị cáo mới 17 tuổi 04 tháng 20 ngày nên cần áp dụng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Đồng thời, xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tự cải tạo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và ngăn ngừa chung.

Bị cáo Huỳnh Gia H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm h - i - s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Huỳnh Gia H. Ngoài ra đối với bị cáo H, bị cáo sinh ngày 28/02/2005 đến thời điểm phạm tội là ngày 01/11/2022 bị cáo mới 17 tuổi 8 tháng 27 ngày nên cần áp dụng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Ngoài ra, xét thấy tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo không cao; không có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng; không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, nên áp dụng Điều 36 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta và tự cải tạo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

[5] Tại phiên tòa ngày 21/6/2023, Toà án nhân dân huyện Vạn Ninh đã có Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số: 08/2023/HSST-QĐ để yêu cầu làm rõ hành vi của bị cáo Huỳnh Gia H có dấu hiệu phạm tội “Trộm cắp tài sản” hay không. Tuy nhiên tại Công văn số: 04/VKSVN ngày 26/6/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh xác định hành vi của bị cáo H không có dấu hiệu của tội “Trộm cắp tài sản” và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Huỳnh Gia H về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Huỳnh Tiến D đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 11, bên trong gắn 02 Sim mạng Viettel và Mobifone của T, tài sản có tổng giá trị 3.912.000đ (ba triệu chín trăm mười hai nghìn đồng). Tại phiên tòa, cháu T và người đại diện hợp pháp vắng mặt, nhưng căn cứ lời khai của họ có tại hồ sơ vụ án thì họ không còn yêu cầu bị cáo D phải bồi thường hoặc có khiếu nại gì khác, nên Tòa không xem xét.

[7] Về án phí:

Bị cáo Huỳnh Tiến D thuộc hộ nghèo nên được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Huỳnh Gia H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, với số tiền là bị cáo phải chịu là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Huỳnh Tiến D.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Tiến D 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

* Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm h - i - s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Huỳnh Gia H.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Gia H 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục nhận được bản án và quyết định thi hành án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giữ.

- Về trách nhiệm dân sự: Không xét về việc bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm giữa bị cáo Huỳnh Tiến D và Huỳnh Gia H đối với em Huỳnh Văn K.

- Về án phí:

+ Bị cáo Huỳnh Tiến D được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

+ Bị cáo Huỳnh Gia H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

- Quyền kháng cáo của các bị cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; quyền kháng cáo của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) là 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về