Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2022/HSST ngày 03 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXX- ST ngày 25 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo: Nguyễn Thị X; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1991 tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn T, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L, sinh 1960 và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1958; chồng: Lâm Ngọc T, sinh 1987; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2021, tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/5/2022 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Anh Hà Văn M, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn L, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 15/4/2022, Nguyễn Thị X điều khiển xe mô tô BKS 73K3- 1598 đi mua phế liệu. Khi đến đoạn đường thôn N, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình thì phát hiện thấy một chiếc xe lôi bằng sắt của anh Hà Văn M ở thôn N , xã H đang dựng bên lề đường không có người không có người trông giữ nên nãy sinh ý định lấy trộm. X dùng xe mô tô của mình kéo xe lôi đến để bên đường khu vực gần cổng chào thôn M, xã S rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô đi mua phế liệu. Quá trình điều tra X đã thừa nhận hành vi lén lút lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để lấy trộm nhằm chiếm đoạt xe lôi.

Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy, định giá và kết luận: Xe lôi được làm bằng sắt có giá trị 5.500.000 đồng.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã tạm giữ 01 xe lôi được làm bằng sắt; 01 xe mô tô BKS 73K3- 1598. Tất cả có đặc điểm như biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu.

Xử lý vật chứng: Ngày 18/5/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Lê Văn L 01 xe môtô nhãn hiệu Drem biển kiểm soát 73K3- 1598; trả lại cho anh Hà Văn M 01 xe lôi đã qua sử dụng được làm bằng sắt theo đúng quy định của pháp luật.

Về dân sự: Bị hại anh Hà Văn M và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bản Cáo trạng số 29/CT- VKSNDLT ngày 02/8/2022, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy truy tố bị cáo Nguyễn Thị X về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Qua tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị X từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lệ Thủy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Chứng cứ xác định có tội và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị X khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng như các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra đã thu thập, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 15/4/2022, bị cáo Nguyễn Thị X đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu để lén lút chiếm đoạt 01 xe lôi trị giá 5.500.000 đồng của anh Hà Văn M. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo luôn tỏ thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại các điểm s, i, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mặc dù tại phiên tòa hôm nay người bị hại vắng mặt nhưng trước đó đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo:

Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe nhưng lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp 01 xe lôi trị giá 5.500.000 đồng, hành vi của bị cáo gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhất trí áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục là vừa phải, nhằm tạo cho bị cáo có điều kiện để chăm sóc gia đình, đồng thời tự cải tạo rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội là phù hợp với Điều 65 của Bộ luật hình sự cũng như ý kiến, phân tích và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[5] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị X phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị X 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, thời hạn chấp hành án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/9/2022).

Giao bị cáo Nguyễn Thị X cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với y ban nhân dân xã A, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành thời gian thử thách vắng mặt, thay đổi nơi cư trú hoặc làm việc thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Xử bị cáo Nguyễn Thị X phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/9/2022) bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về