Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 33/2021/HSST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Lộc Hà đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/TLST- HS ngày 27 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/HSST-QĐ ngày 03/12/2021, đối với bị cáo:

TRẦN THỊ MỸ D - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày: 11/5/2003 tại xã X, huyện N, tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh H; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông: Trần Quốc T1 - Sinh năm 1978 và bà: Phạm Thị H1 - Sinh năm 1981; Chồng: Nguyễn Hữu Ư - Sinh năm 2001 và một con sinh ngày 28/9/2021; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/9/2021, bị TAND huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khởi nơi cư trú theo Lệnh số 56A/HSST ngày 27/9/2021 của Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Chị Đặng Thị L - Sinh ngày: 10/10/1998; Nơi cư trú: Thôn T2, xã P, huyện L1, tỉnh H (Vắng mặt).

Người có quyền lợi liên quan: Anh Trần Quốc T1 - Sinh ngày: 31/7/1978; Nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 02/9/2021, Trần Thị Mỹ D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 38N1 - 180.00 (của ông Trần Quốc T1 là bố đẻ của D) từ nhà ở thôn T, xã X, huyện N, tỉnh H đến cửa hàng tạp hóa của chị Đặng Thị L tại thôn 4, xã B, huyện L1, tỉnh H để mua một số đồ dùng cá nhân. Sau khi chọn được đồ cần mua, D đi lại quầy thanh toán. Trong lúc chị L đang tập lồng ruột gối vào vỏ gối thì D phát hiện tại quầy hàng của chị L có một túi xách màu đen nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản có trong túi xách đó. Lợi dụng lúc chị L không để ý, D đã lén lút kéo khóa mở túi xách để tìm kiếm tài sản. Khi mở túi xách ra D thấy một số tờ tiền với nhiều mệnh giá khác nhau. Thấy vậy, D lấy một tờ tiền có mệnh giá 50.000 đồng bỏ vào trong túi áo phía trên của mình rồi tiếp tục lục soát phía trong túi xách thấy một chiếc ví màu hồng nên lấy trộm chiếc ví này bỏ vào trong túi áo khoác nắng mà D đang mặc. Sau khi lấy trộm tài sản, D nói với chị L “Chị cho em để đồ ở đây, em ra đón em lát em quay lại lấy”, nghe vậy thì chị L đồng ý. Sau khi rời cửa hàng, D điều khiển xe mô tô đến một cây xăng gần đó và dùng 50.000 đồng vừa lấy được để trả tiền đổ xăng. Tại đây, D đã mở chiếc ví màu hồng vừa lấy trộm ở cửa hàng của chị L ra kiểm tra thì thấy bên trong ví có số tiền 2.000.000 đồng (gồm 04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng), 01 thẻ căn cước công dân và 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank đều mang tên Đặng Thị L, sau đó D cất tài sản vừa trộm được và tiếp tục điều khiển xe đi về. Khi về đến nhà, D cất toàn bộ tài sản vừa trộm được vào trong tủ đựng quần áo đặt ở phòng ngủ của D. Đến ngày 06/9/2021, khi làm việc với Công an xã B, huyện L1, D đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình và chỉ ra nơi cất giấu tản sản.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà đã thu giữ: 01 ví bằng vải màu hồng, kích thước (10 x 8 x 2)cm, bên trong ví có số tiền 2.000.000 đồng gồm 04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 thẻ căn cước công dân và 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank đều mang tên Đặng Thị L. 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX biển kiểm soát 38N1 - 180.00 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Trần Quốc T1.

Xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà đã trả lại các vật chứng nói trên cho chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, người bị hại chị Đặng Thị L không có yêu cầu gì thêm về dân sự. Đối với số tiền 50.000 đồng sau khi lấy trộm được D đã dùng để đổ xăng không thu hồi được, thì chị L cũng không yêu cầu D phải bồi thường.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Thị Mỹ D khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Bản cáo trạng số 28/CT-VKSLH ngày 26/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Trần Thị Mỹ D về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Hành vi của bị cáo Trần Thị Mỹ D có đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Thị Mỹ D về tội Trộm cắp tài sản và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 173; điểm n, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS, xử phạt bị Trần Thị Mỹ D từ 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt của hai bản án, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Lời nói sau cùng của bị cáo Trần Thị Mỹ D: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật; bị cáo rất ăn năn, hối cải và xin HĐXX xử giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo xin hứa từ nay về sau sẽ không vi phạm pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Trần Thị Mỹ D trước phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án. Do đó HĐXX đã có đủ chứng cứ để kết luận:

Vào khoảng 15 giờ ngày 02/9/2021, tại cửa hàng tạp hóa của chị Đặng Thị L ở thôn 4, xã B, huyện L1, tỉnh H, Trần Thị Mỹ D đã có hành vi lén lút lấy trộm của chị L 01 chiếc ví bằng vải màu hồng bên trong có 01 thẻ căn cước công dân và 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên Đặng Thị L cùng với số tiền 2.050.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Trần Thị Mỹ D đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 173 Bộ luật hình sự.

Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Trần Thị Mỹ D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng chính sách Pháp luật.

Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự quy định: Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Xét tính chất vụ án, HĐXX xét thấy đây là vụ án Trộm cắp tài sản gây hậu quả ít nghiêm trọng. Vụ án xảy ra trong bối cảnh tình hình an ninh trật tự trên địa bàn có chiều hướng gia tăng, gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì bị cáo Trần Thị Mỹ D thực hiện hành vi phạm tội không thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào được quy định tại điều 52 BLHS.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì bị cáo Trần Thị Mỹ D được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS: "Thành khẩn khai báo” và “Người phạm tội là phụ nữ có thai"; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm n, điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Ngoài ra, tại thời điểm xét xử bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cần áp dụng cho bị cáo.

Xét về nhân thân thì bị cáo Trần Thị Mỹ D có nhân thân xấu, 27/9/2021, bị TAND huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (Chưa được xóa án tích).

Sau khi xem xét đánh giá hành vi, hậu quả, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo và tính chất rất nghiêm trọng của vụ án, HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS để xử phạt bị cáo một mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo rèn luyện bản thân có ý thức tôn trọng pháp luật và có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Đặng Thị L đã nhận lại tài sản, hiện nay không có yêu cầu bồi thường về dân sự, do đó HĐXX miễn xét.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà đã xử lý đúng thẩm quyền, do đó HĐXX miễn xét.

Về biện pháp tư pháp: Quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Trần Thị Mỹ D hưởng thụ số tiền thu lợi bất chính 50.000 đồng. Do đó HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 BLHS, tịch thu sung quỹ nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Mỹ D phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 điều 173; điểm n, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ D: 06 (Sáu) tháng tù.

Áp dụng: Khoản 1 điều 55; khoản 1 điều 56 BLHS, tổng hợp hình phạt với 09 (Chín) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 55/2021/H-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS, tịch thu sung quỹ nhà nước: Số tiền thu lợi bất chính tại bị cáo Trần Thị Mỹ D: 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 135; khoản 2 điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 điều 23; khoản 2 điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH và danh mục mức án phí, lệ phí toà án ban hành kèm theo, xử buộc: Bị cáo Trần Thị Mỹ D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh để xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi liên quan vắng mặt được quyền kháng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2021/HSST

Số hiệu:33/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về