Bản án về tội trộm cắp tài sản số 327/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 327/2023/HS-ST NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 322/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 324/2023/QĐXXST-HS ngày 20/11/2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 137/2023/HSST-QĐ ngày 30/11/2023 đối với bị cáo: Họ và tên: KTH Giới tính: Nam Tên gọi khác: Không Sinh ngày 23 tháng 3 năm 2006, tại: Hà Nội.

HKTT và chỗ ở: Tổ 4, phường T, B, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do Trình độ văn hóa: 9/12. Họ tên bố: KĐV Sinh năm: 1980 Họ tên mẹ: NTHT Sinh năm: 1981 Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) - Người đại diện theo pháp luật của bị cáo KTH: Bà NTHT

- Người bào chữa cho bị cáo KTH: Bà Bùi Thị Hải L – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Thành phố Hà Nội.

(Bà T, bà Lưu có mặt)

2. Bị hại:

2.1. Bà ĐTX, sinh năm 1967 Trú tại: Tổ 17 phường T, quận B, Hà Nội.

2.2. Bà LTĐ, sinh năm 1951 Trú tại: Tổ 4 phường T, quận B, Hà Nội.

2.3. Anh NVT, sinh năm 1979 Trú tại: Tổ 4 phường T, quận B, Hà Nội.

2.4. Chị VTLA, sinh năm 1985 Trú tại: Tổ 17 phường T, quận B, Hà Nội.

2.5. Chị NTLP, sinh năm 1982 Trú tại: Tổ 17 phường T, quận B, Hà Nội.

2.6. Chị PTL, sinh năm 1985 Trú tại: Tổ 17 phường T, quận B, Hà Nội.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Anh ĐVV, sinh năm 1997 Trú tại: Xóm 2, xã XH, Huyện T, Nam Định.

3.2. Bà PTT, sinh năm 1969 Trú tại: Xóm 2, xã XH, Huyện T, Nam Định.

3.3 Anh HĐC, sinh năm 1978 Trú tại: Tổ 17 phường T, quận B, Hà Nội.

3.4 Anh LVM, sinh năm 1980 Trú tại: Xã HT, Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

(Anh T, chị L, anh C, anh M vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Bà X, bà Đ, chị LA, chị P, anh V, bà T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07h00’ ngày 21/06/2023, KTH đi bộ từ nhà tại tổ 4, phường T, B, Hà Nội đến chung cư CT2B thuộc tổ 17, phường T, B, Hà Nội với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến vỉa hè của chung cư CT2B H thấy 01 xe đạp mini màu xanh của bà ĐTX (Sinh năm: 1967; HKTT: Tổ 17, phường T, B, Hà Nội) không khóa nên đã trộm cắp chiếc xe trên. H dắt lùi xe ra khỏi vỉa hè và đạp xe đi. Lúc này chị ĐTD (Sinh năm: 1995, HKTT: Tổ 17, phường T, B, Hà Nội là con của bà X) phát hiện nên chạy đến hỏi KTH về nguồn gốc chiếc xe đạp trên. Thấy vậy, H đạp xe bỏ chạy thì chị D đã truy hộ “Trộm..Trộm”. Khi H dắt xe đạp và đạp xe về phía đê B – Xuân Quang được 50m thì bị người dân phát hiện bắt giữ và trình báo, bàn giao cho Công an phường T để điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra xác định, ngoài lần trộm cắp xe đạp của bà X ngày 26/06/2023, H còn thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản khác như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 10h00’ ngày 17/6/2023, H đi bộ từ nhà ra cuối ngõ 105 đường T thuộc tổ 4, phường T, B, Hà Nội trộm cắp 01 xe đạp mini màu đỏ nâu, là tài sản của bà LTĐ (Sinh năm: 1951; HKTT: Tổ 4 phường T, B, Hà Nội). Sau khi chiếm đoạt được chiếc xe trên, H đã bán cho anh ĐVV (Sinh năm: 1997; HKTT: Xóm 2, xã XH, Huyện X Trường, Nam Định) tại cửa hàng thu mua sắt vụn (địa chỉ: Số 66, phố T, B, Hà Nội) số tiền 100.000 đồng. Số tiền trên H đã tiêu sài cá nhân hết. Chiếc xe trên anh V đã đập dập và bán lại cho người thu mua sắt vụn vào ngày 19/6/2023 (hiện chưa rõ nhân thân lai lịch của người mua). Cơ quan điều tra chưa thu hồi được chiếc xe trên.

Vụ thứ hai: Khoảng 18h15’ ngày 17/6/2023, H tiếp tục trộm 01 xe đạp mini màu trắng vàng ở địa chỉ số 30A ngõ 49, T, B, Hà Nội là tài sản của anh NVT (Sinh năm: 1979; HKTT: Tổ 4, Phường T, B, Hà Nội). Sau khi trộm cắp, H đã bán cho bà PTT (Sinh năm:1969; HKTT: Xóm 2, xã XH, Huyện T, Nam Định - là mẹ đẻ của anh ĐVV) tại cửa hàng thu mua sắt vụn, địa chỉ số 66 phố T, B, Hà Nội với giá 100.000 đồng. Số tiền trên H đã tiêu sài cá nhân hết. Chiếc xe trên anh V đã đập dập và bán lại cho người thu mua sắt vụn vào ngày 19/6/2023 (hiện không rõ nhân thân lai lịch của người mua). Hiện Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc xe trên.

Vụ thứ ba: Sáng ngày 18/6/2023, H tiếp tục trộm 01 xe đạp thể thao nhãn hiệu FORNIX màu đỏ đen tại vỉa hè chung cư CT2B, là tài sản của chị VTLA (Sinh năm: 1985, HKTT: Tổ 17, phường T, B, Hà Nội). Chiếc xe trên H đem bán tại cửa hàng mua bán xe đạp ở số 47 VXT, Sài Đồng, B, Hà Nội cho anh HĐC (Sinh năm: 1978; HKTT: Tổ 17, phường T, B, Hà Nội) được 500.000 đồng. Số tiền trên H đã tiêu sài cá nhân hết. Hiện Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc xe trên.

Lần thứ tư: Chiều ngày 19/6/2023, H tiếp tục trộm 01 xe đạp thể thao nhãn hiệu FORNIX màu cam đen tại vỉa hè chung cư CT2B, là tài sản của chị NTLP (Sinh năm: 1982; HKTT: Tổ 17, phường T, B, Hà Nội). Chiếc xe trên H đem bán tại cửa hàng mua bán xe đạp địa chỉ: số 47 Vũ X Thiều, Sài Đồng, B, Hà Nội cho anh HĐC được 300.000 đồng. Số tiền trên H đã tiêu sài cá nhân hết. Hiện Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc xe trên.

Vụ thứ năm: Khoảng 06h30’ ngày 20/6/2023, H tiếp tục trộm 01 xe đạp nhãn hiệu AVIBUS màu xám bạc tại vỉa hè chung cư CT2B, là tài sản của chị PTL (Sinh năm: 1985; HKTT: Tổ 17, phường T, B, Hà Nội). Chiếc xe trên H đem bán cho anh LVM (Sinh năm:1980; HKTT: xã HT, Huyện Hưng Hà, Thái Bình) tại cửa hàng mua bán xe đạp ở địa chỉ số 27 ngõ 196 T, B, Hà Nội được 150.000 đồng. Số tiền trên H đã tiêu sài cá nhân hết. Sau khi làm việc với Cơ quan điều tra thì anh M mới biết chiếc xe trên là tài sản do phạm tội mà có nên anh M đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc xe trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe đạp mini màu xanh (thu giữ của KTH).

- 01 xe đạp Avibus màu xám (thu giữ của LVM).

- 01 USB và 01 hóa đơn mua bán xe đạp nhãn hiệu Avibus ngày 06/9/2022 (thu giữ của anh NVT) Tại bản Kết luận định giá tài sản số 120/KL-HĐĐGTS ngày 30/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B, kết luận:

- 01 xe đạp mini màu xanh, trị giá 150.000 đồng (tài sản của bà ĐTX).

- 01 xe đạp nhãn hiệu AVIBUS màu xám bạc, trị giá 300.000 đồng (tài sản của chị PTL).

- 01 xe đạp mini AVIBUS màu trắng, trị giá 2.025.000 đồng (tài sản của anh NVT).

- 01 xe đạp thể thao nhãn hiệu FORNIX màu đỏ đen, trị giá 3.901.350 đồng (tài sản của chị Vũ Thị Lan).

- 01 xe đạp thể thao nhãn hiệu FORNIX màu cam đen (tài sản của chị NTLP) và 01 xe đạp mini nữ màu đỏ (tài sản của bà LTĐ) chưa đủ điều kiện để định giá.

Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 6.376.350 đồng (Sáu triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm năm mươi đồng).

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số: 302/CT-VKS ngày 09/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận B đã truy tố KTH về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người bị hại phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo KTH đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào khoản 1 Điều 173 của BLHS.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điều 65; điều 91 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo H từ 08 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng.

Về dân sự: Các bị hại là bà ĐTX, chị PTL, anh NVT, chị VTLA, chị NTLP, bà LTĐ và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh LVM không yêu cầu KTH bồi thường dân sự và đề nghị xử lý đối với KTH theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, đại diện hợp pháp của bị cáo trình bày: Bố mẹ bị cáo có thời gian ly hôn nên gia đình thiếu quan tâm đến bị cáo. Bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế nên xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo phạm tội khi chưa thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Bị cáo và gia đình đã khắc phục hậu quả, bồi thường cho người bị hại. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo còn tự thú về các hành vi chưa bị phát hiện nên đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS; cho bị cáo mức hình phạt thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Nói lời sau cùng, bị cáo hứa sẽ sửa chữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, lời khai bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 17/6/2023 đến ngày 21/6/2023 tại khu vực phường T, quận B, thành phố Hà Nội, KTH có hành vi trộm cắp nhiều lần được 06 xe đạp với tổng giá trị tài sản phải chịu trách nhiệm hình sự là 6.376.350 đồng (Sáu triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm năm mươi đồng) của các bị hại là bà ĐTX, chị PTL, anh NVT, chị VTLA, chị NTLP và bà LTĐ. Đối với 01 chiếc xe đạp thể thao nhãn hiệu FORNIX màu cam đen và 01 chiếc xe đạp mini nữ màu đỏ chưa đủ điều kiện để định giá do chưa thu hồi được và không có hoá đơn mua bán, tài liệu về kinh tế kỹ thuật nên không có cơ sở buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hai tài sản này.

Hành vi của bị cáo KTH đã cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận B truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng TNHS theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho bị hại, khắc phục hậu quả; bị hại có đơn xin xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo bị phát hiện, không phải do bị cáo ra tự thú nên không có cơ sở để áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại điểm r khoản 1 điều 51 BLHS như đề nghị của người bào chữa.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi (17 tuổi 02 tháng 25 ngày), nhận thức pháp luật còn hạn chế nên cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo và phù hợp với C sách nhân đạo của Nhà nước ta.

Đại diện VKSND quận B đề nghị về hình phạt C, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

[5] Về dân sự:

Bà X, chị L đã nhận lại tài sản, bị cáo và gia đình đã bồi thường cho anh T và chị LA; bà Đ, chị P không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Các bị hại không có đề nghị gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Anh LVM không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không xem xét.

[6] Về vật chứng:

Cho tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 550.000 đ (năm trăm năm mươi nghìn đồng) thu lợi bất C do bị cáo tự nguyện nộp phạt khắc phục hậu quả là có căn cứ.

[7] Các vấn đề khác:

Đối với ĐVV, PTT, LVM: Quá trình điều tra, ĐVV, PTT, LVM và KTH đều khai khi mua xe đạp cũ của KTH không biết xe đạp đã mua là do H trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với ĐVV, PTT, LVM là có cơ sở.

Đối với HĐC là chủ cửa hàng mua bán xe đạp địa chỉ số 47 VXT, phường Sài Đồng, quận B, Hà Nội. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho HĐC và KTH đối chất nhưng không có kết quả. Do đó, không đủ căn cứ để xử lý đối với HĐC.

[8] Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo và những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65; điều 91, điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.

1. Tuyên bố bị cáo KTH phạm tội: Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt Bị cáo 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND phường T, quận B, thành phố Hà Nội để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo Cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 550.000đ (năm trăm năm mươi nghìn đồng) thu lợi bất chính do bị cáo tự nguyện nộp phạt khắc phục hậu quả ((theo biên lai thu tiền số 0018359 ngày 12/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B).

3. Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao, nhận bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 327/2023/HS-ST

Số hiệu:327/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về