Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 02/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2023/HSST ngày 06 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Mai V. Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 12/3/1996, tại: Đà Nẵng; Nơi ĐKNK thường trú: Tổ xx, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 59 phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Mai C, sinh năm: 1976 và con bà: Phạm Thị H, sinh năm: 1970. Gia đình có 02 anh em. Bị cáo là con út.

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Mai V: Bà Phạm Thị H, sinh năm: 1970. Địa chỉ: Tổ 59, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. (là Mẹ ruột của bị cáo). có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Mai V: Ông Nguyễn Phú C – Luật sư Văn phòng luật sư M, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ: 276 Cù Chính Lan, quận Thanh Khê, Tp Đà Nẵng. có mặt

* Bị hại: Chị Lê Thị Mộng T – Sinh năm: 1988; Địa chỉ: Số xx đường N, thuộc tổ 126, P. Hòa Minh, Q. Liên Chiểu TP. Đà Nẵng. vắng mặt

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Phạm Đình T1 - Sinh năm: 1998. Trú tại: Tổ 57, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. vắng mặt

2/ Ông Phan Văn Th - Sinh năm: 1960. Trú tại: Tổ 59, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. vắng mặt

3/ Bà Nguyễn Thị Ph - Sinh năm: 1968. Trú tại: Tổ 59, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. vắng mặt

4/ Bà Trần Thị P - Sinh năm: 1982. Trú tại: Tổ 58, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. vắng mặt.

5/ Ông Mai T2 - Sinh năm: 1991. Trú tại: Tổ 57, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19h00 ngày 06/7/2022, Mai V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 43R2-X đi đến khu dân cư Phước Lý thuộc P. Hòa Minh, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng để nhặt ve chai, phế liệu. Khi đi qua ngôi nhà tại 06 đường N thuộc tổ 126, P. Hòa Minh, Q. Liên Chiểu của chị Lê Thị Mộng T đang xây dựng, không có ai trông coi thì V nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định của mình, V đi vào bên trong ngôi nhà và lấy các tài sản gồm: 01 máy hơi phun sơn màu đỏ, 01 thang nhôm chữ A và 02 cuộn dây điện mỗi cuộn dài 20 mét. V sử dụng xe mô tô nói trên chở các tài sản này về để trước đường kiệt vào nhà V cất giấu.

Sau đó, V tiếp tục quay lại ngôi nhà đang xây dựng nêu trên, thấy bên cạnh ngôi nhà có một nhà kho khóa cửa nên Mai V đã sử dụng một cái búa thường ngày mang theo để đi nhặt ve chai, phế liệu để phá ổ khóa. Khi phá được ổ khóa V mở cửa ra thì tiếp tục lấy trộm 15 cặp giằng chéo giàn giáo, 03 bộ khung giàn giáo không có giằng chéo và 02 thanh sắt chống giàn rồi đưa ra xe mô tô chở về nhà cất giấu.

Đến ngày 07/7/2022, V đưa các tài sản trộm cắp được bán cho nhiều người thu mua phế liệu, cụ thể: V bán cho anh Phạm Đình Tân 01 máy hơi phun sơn với giá 900.000 đồng, anh Tân đã giao nộp lại tại sản này; bán cho anh Phan Văn T 01 bộ giàn giáo, 02 cặp giằng chéo giàn giáo và 02 thanh sắt chống giàn giáo với tổng số tiền là 400.000 đồng, anh T đã giao nộp lại các tài sản này; bán cho chị Nguyễn Thị P 02 bộ khung giàn giáo, 13 cặp chéo giàn giáo và 2 cuộn dây điện V đã đốt lấy lõi đồng với tổng số tiền 900.000 đồng, chị P đã giao nộp lại các tài sản này, riêng sợi lõi đồng chị đã bán cho người khác không rõ lai lịch; bán cho chị Trần Thị P 01 thang nhôm chữ A với giá 300.000 đồng, sau đó chị P đã tái chế và bán lại cho một người không rõ lại lịch với giá 350.000 đồng.

* Vật chứng tạm giữ:

- 01 máy hơi phun sơn màu đỏ; 03 bộ khung giàn giáo không có giằng chéo;

02 thanh sắt chống giàn giáo; 15 cặp giằng chéo giàn giáo.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát: 43R2-X, nhãn hiệu Yamaha Exciter và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát: 43R2-X.

- Số tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 350.000 đồng.

Theo Bản Kết luận định giá tài sản số: 105/KL-HĐĐGTS, ngày 06/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu, kết luận tổng giá trị của các tài sản do Mai V chiếm đoạt là 8.650.000 đồng (Tám triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Theo Bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1794/KLGĐ ngày 20/10/2022 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung kết luận: Trước thời điểm gây án, tại thời điểm gây án và hiện tại Mai V bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

Bản cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 03/02/2023 của VKSND quận Liên Chiểu đã truy tố bị cáo Mai V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng số 17/CT- VKS ngày 03/02/2023 của VKSND quận Liên Chiểu. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, q, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mai V từ 06-09 tháng tù, cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách từ 12-18 tháng.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

Trả lại cho chị Trần Thị P số tiền 350.000 đồng.

Tiếp tục giao xe mô tô biển kiểm soát 43R2-X cho CQCSĐT Công an quận Liên Chiểu xác minh điều tra và xử lý theo quy định.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Lê Thị Mộng T và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không ai có yêu cầu gì về trách nhiệm bồi thường dân sự.

Tại phần tranh luận, bào chữa cho bị cáo Mai V, Luật sư Nguyễn Phú C thống nhất về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà VKSDN quận Liên Chiểu đã đề nghị là có căn cứ đúng pháp luật. Tuy nhiên, đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, “phạm tội nhiều lần“ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là chưa đủ căn cứ, vì luật sư cho rằng bị cáo trộm cắp tài sản cùng một thời điểm và của một chủ sở hữu tài sản. Đồng thời, Luật sư đề nghị HĐXX xem xét về điều kiện và hoàn cảnh phạm tội, khi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi theo kết luận số 1794/KLGĐ ngày 20/10/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền trung, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên nhất thời phạm tội, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị HĐXX cho bị cáo mức án thấp nhất mà KSV đã đề nghị (06 tháng tù cho hưởng án treo).

Phần đối đáp: KSV vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, “phạm tội nhiều lần“ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp 02 lần, giá trị tài sản bị cáo trộm cắp mỗi lần đều trên 2.000.000đ, đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, nên không đồng ý quan điểm bào chữa của Luật sư.

Bị cáo Mai V và người đại diện hợp pháp của bị cáo thống nhất với lời bào chữa của Luật sư và không có ý kiến tranh luận bổ sung.

Người bị hại vắng mặt, nhưng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo Mai V trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 19h00 phút, ngày 06/7/2022, tại số 06 đường N, thuộc tổ 126 phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, bị cáo Mai V đã 02 lần có hành vi lén lút, phá cửa và thực hiện hành vi trộm cắp của chị Lê Thị Mộng T các tài sản: 01 máy hơi phun sơn màu đỏ, 01 thang nhôm chữ A, 02 cuộn dây điện mỗi cuộn dài 20 mét, trị giá: 4.570.000đ; và 03 bộ khung giàn giáo không có giằng chéo, 02 thanh sắt chống giàn giáo, 15 cặp giằng chéo giàn giáo, trị giá: 4.080.000đ. Tổng giá trị tài sản bị cáo Mai V trộm cắp là 8.650.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 03/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở của người khác thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Do vậy, việc xét xử bị cáo đưa ra mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là cần thiết, nhằm giáo dục bị cáo.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Giá trị tài sản không lớn; Theo kết luận số 1794/KLGĐ ngày 20/10/2022 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung kết luận: Tại thời điểm gây án bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, q, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Tình tiết tăng nặng: Do bị cáo thực hiện 02 lần phạm tội, nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5]. Về đề nghị của Luật sư: Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà VKSDN quận Liên Chiểu đã đề nghị là có căn cứ đúng pháp luật. Tuy nhiên, đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, “phạm tội nhiều lần“ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, thì Luật sư không đồng ý, vì Luật sư cho rằng bị cáo trộm cắp tài sản cùng một thời điểm và của một chủ sở hữu tài sản, nên không có căn cứ truy tố phạm tội nhiều lần.

Vấn đề này HĐXX xét thấy: Tối ngày 06/7/2022, tại công trình đang xây dựng nhà ở tư nhân của chị Lê Thị Mộng T, bị cáo Mai V đã có hành vi lén lút vào công trình đang xây dựng trộm cắp: 01 máy hơi phun sơn màu đỏ, 01 thang nhôm chữ A, 02 cuộn dây điện mỗi cuộn dài 20 mét, trị giá: 4.570.000đ, rồi bị cáo Mai V chở toàn bộ tài sản trên về nhà của bị cáo; Sau đó, bị cáo Mai V tiếp tục quay lại ngôi nhà đang xây dựng và thấy bên cạnh ngôi nhà có một nhà kho khóa cửa nên bị cáo Mai V đã sử dụng một cái búa để phá ổ khóa vào trong trộm cắp: 03 bộ khung giàn giáo không có giằng chéo, 02 thanh sắt chống giàn giáo, 15 cặp giằng chéo giàn giáo, trị giá: 4.080.000đ. Như vậy, cả 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt đều trên 2.000.000đ là đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản của từng lần bị truy tố, nên việc KSV đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, “phạm tội nhiều lần“ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Mai V là hoàn toàn có căn cứ. Do vậy, HĐXX không chấp nhận đề nghị của Luật sư.

HĐXX xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, lần đầu phạm tội, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại, đồng thời bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn và bị bệnh theo kết luận số 1794/KLGĐ ngày 20/10/2022 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung, nên HĐXX thống nhất đề nghị của KSV và Luật sư, tạo điều kiện cho bị cáo có điều kiện điều trị, chữa bệnh, nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo và giao bị cáo về cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát giáo dục cũng đủ sức ren đe.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 350.000 đồng thu của chị Trần Thị P, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho chị Trần Thị P.

- Ngày 21/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 115/CSĐT trả lại toàn bộ tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lê Thị Mộng T đã nhận và không yêu cầu thêm nên HĐXX không xét.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát 43R2-X là xe do V mượn của anh ruột là Mai T để làm phương tiện đi lại và sau đó sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Anh T xác nhận xe mô tô này anh T mua tại một cửa hàng mua bán xe cũ ở Hòa Khánh (Không nhớ tên cửa hàng), khi mua có giấy tờ mua bán nhưng đã thất lạc và chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Xe mô tô này hiện do anh Nguyễn Chí T đứng tên chủ sở hữu trong giấy đăng ký xe. Xác minh tại số 36 Đoàn Thị Điểm, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng thì hiện anh T không có mặt tại địa phương. Do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của xe môtô nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ xử lý sau là có căn cứ.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Lê Thị Mộng T và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có yêu cầu gì về trách nhiệm bồi thường dân sự, nên HĐXX không xét.

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo phải nộp số tiền 200.000đ án phí HSST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

I. Tuyên bố bị cáo: Bị cáo Mai V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s, q khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Mai V 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm. Thử thách tính từ ngày 02/3/2023.

Giao bị cáo Mai V về UBND phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Mai V muốn thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, bị cáo Mai V cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Mai V phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

III. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS. Trả lại cho chị Trần Thị Ph số tiền 350.000 đồng.

(Vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06.02.2023).

Tiếp tục giao xe mô tô biển kiểm soát 43R2-X (kèm giấy đăng ký xe mô tô số 018338 đứng tên chủ xe Nguyễn Chí T) cho CQCSĐT Công an quận Liên Chiểu xác minh, điều tra và xử lý theo quy định.

(Xe đang tạm giữ tại CQCSĐT Công an quận Liên Chiểu theo biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 09.7.2022).

IV. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST.

V. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người giám hộ cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về