Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 18/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 425/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 375/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 209/2021/HSST-QĐ ngày 28/12/2021 đối với bị cáo:

Phan Văn Th, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2002 tại: Nghệ An; Hộ khẩu thường trú: Tổ 3 Đ, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở: Thôn H 2, xã V1, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Văn T, sinh năm 1980 và bà Cao Thị T1, sinh năm 1985; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Phan Thị T2, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn VT, xã V2, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Xuân H, sinh năm 1981, đại diện hộ kinh doanh TY, địa chỉ: xxx đường 2/4, phường V3, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 30 tháng 7 năm 2021, chị Phan Thị T2 cùng gia đình đi cách ly y tế tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Khánh Hòa nên nhờ Phan Văn Th trông nhà giùm và cho chó của chị T2 ăn. Chị T2 đưa 01 chìa khóa cổng cho Th, còn cửa chính vào trong nhà, chị T2 không khóa để Th vào phòng khách lấy thức ăn cho chó. Do cần tiền trả nợ và tiêu dùng cá nhân nên Th nảy sinh ý định vào trong nhà chị T2 tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khoảng 06 giờ ngày 11 tháng 8 năm 2021, Th lấy trộm một máy tính xách tay hiệu Asus X43U để tại phòng ngủ của chị T2 và đem đến tiệm cầm đồ TY tại địa chỉ: xxx đường 2/4, phường V3, thành phố Nha Trang cầm thế cho anh Bùi Xuân H được 1.200.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ ngày 12 tháng 8 năm 2021, Th tiếp tục vào phòng ngủ của chị T2 lục tìm lấy trộm số tiền mặt 23.000.000 đồng để trên tủ nhựa đựng quần áo. Số tiền trộm được Th trả nợ cho “Khang” (không rõ nhân thân, lai lịch) 14.000.000 đồng; mua điện thoại Iphone X của một người không rõ lai lịch, địa chỉ trên mạng xã hội hết 7.500.000 đồng, còn 1.500.000 đồng Th tiêu dùng cá nhân hết.

Ngày 14 tháng 8 năm 2021, chị Phan Thị T2 hết thời gian cách ly về nhà. Đến sáng ngày 16 tháng 8 năm 2021, chị T2 kiểm tra thì phát hiện mất trộm tài sản như đã nêu nên đến Công an xã trình báo. Qua truy xét, chiều ngày 16 tháng 8 năm 2021, Cơ quan công an đưa Th về trụ sở làm việc. Th khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 333/KL-HĐĐG ngày 26/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận: 01 máy tính Asus X43U-ADME-350.6GHZ-4G có giá trị 2.400.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 351/CT-VKSNT ngày 15 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Phan Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Văn Th, xử phạt bị cáo Phan Văn Th từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu bồi thường nên đề nghị không xem xét.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone X 64G màu trắng.

- Bị cáo Phan Văn Th khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 06 giờ ngày 11 tháng 8 năm 2021, tại nhà chị Phan Thị T2 thuộc khu vực Thôn VT, xã V2, thành phố N, Phan Văn Th đã có hành vi lén lút chiếm đoạt một máy tính xách tay hiệu Asus X43U có trị giá 2.400.000 đồng để tại phòng ngủ của chị T2. Đến khoảng 09 giờ ngày 12 tháng 8 năm 2021, Th tiếp tục vào phòng ngủ của chị T2 lục tìm lấy trộm số tiền mặt 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng) để trên tủ nhựa đựng quần áo. Tổng giá trị tài sản Th chiếm đoạt của chị T2 là 25.400.000 đồng (hai mươi lăm triệu bốn trăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[5] Về trách nhiệm dân sự Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện: Bị hại Phan Thị T2 đã được bồi thường số tiền 23.000.000 đồng và đã nhận lại tài sản là chiếc máy tính xách tay hiệu Asus X43U; bị hại Phan Thị T2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Xuân H không có yêu cầu bồi thường về trách nhiệm dân sự, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X 64G màu trắng là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Đối với ông Bùi Xuân H có hành vi nhận cầm thế 01 máy tính Asus X43U-ADME-350.6GHZ-4G: Khi nhận cầm thế, ông H không biết đây là tài sản do Th trộm cắp của bị hại nên không có căn cứ để xử lý hình sự.

[8] Về án phí:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

1. Xử phạt bị cáo Phan Văn Th 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone X 64G màu trắng.

Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/01/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo Phan Văn Th phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về