Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 11/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận P, Thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 12/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Văn P, sinh năm 1996 tại tỉnh Đ; Thường trú: Ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đ; nơi cư trú: không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H (chết) và bà Võ Thị A; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 9/11/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 430/2021/HS-ST, đến ngày 27/9/2022 chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: không; bị bắt tạm giữ ngày 19/12/2022; tạm giam ngày 28/12/2022 tại Nhà tạm giữ Công an quận P.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

 - Người bị hại: Ông Phạm Vũ H1, sinh năm 1992 Địa chỉ: 2 Đ, Phường A, quận P, Thành phố H, (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Võ Thị T, sinh năm 1993 Địa chỉ: B đường số H, Khu phố C, phường B, Thành phố T, Thành phố H, (vắng mặt)

2. Bà Trần Thị N, sinh năm 1992 Địa chỉ: G chung cư A P, Phường G, quận P, Thành phố H, (vắng mặt)

3. Ông Nguyễn Tuấn K, sinh năm 1988 Địa chỉ: G chung cư A P, Phường G, quận P, Thành phố H, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 17/12/2022, đối tượng tên T1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) rủ Trần Văn P đi trộm cắp tài sản và P đồng ý. Sau đó, P điều khiển xe mô tô Honda Vision, màu trắng, biển số: 59B1- xxxxx đến gần cầu S (không rõ địa chỉ) gặp T1 và thanh niên (bạn T1), tại đây T1 đưa cho P 01 ba lô, màu xám, bên trong có 01 kìm cộng lực, bằng kim loại, màu đen cam, hiệu Ingco làm công cụ để đi bẻ khóa cửa nhà trộm cắp tài sản. Sau đó, T1 điều khiển xe của P chở P ngồi phía sau, còn bạn T1 điều khiển xe mô tô, màu đen (không rõ loại xe, biển số) rồi cả ba đi tìm nhà ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến Chung cư P, Phường G, quận P, T1 dừng xe lại và nói P đi vào bên trong chung cư để bẻ khóa đột nhập vào nhà lấy trộm tài sản. P đi vào trong, lấy kìm cộng lực cắt ổ khóa nhà G106 (nhà ông Nguyễn Tuấn K) và G303 (nhà bà Trần Thị N), nhưng do lớp cửa bên trong được khóa bằng chìa khóa nên P chỉ cắt được ổ khóa ngoài, không đột nhập được vào bên trong nên cả bọn bỏ về.

Đến khoảng 02 giờ 45 phút ngày 18/12/2022, Trần Văn P cùng 02 đối tượng trên tiếp tục đi tìm tài sản trộm cắp, khi đi đến nhà của ông Phạm Vũ H1, địa chỉ số B Đ, Phường A, quận P thì P nhìn thấy cửa cổng đang khóa ngoài bằng ổ khóa nên dừng xe, đi bộ đến trước cổng nhà rồi dùng kìm cộng lực cắt ổ khóa. Lúc này, T1 xuống xe rồi đến ngồi lên xe của P, đứng trước nhà để cảnh giới. Sau khi cắt được ổ khóa, P bỏ ổ khóa vào ba lô rồi đi vào bên trong sân nhà thì nhìn thấy có 01 camera nên P lấy tay chụp camera xuống để không bị phát hiện. Nghe có tiếng động nên P đi ra xe T1 chở đi đến đầu hẻm gặp đối tượng còn lại đang chờ sẵn, còn P điều khiển xe máy của mình tiếp tục quay lại nhà ông H1 để lấy trộm tài sản, lúc này T1 cũng đi vào, lấy kìm cộng lực trong ba lô của P cắt ổ khóa cửa chính rồi đưa ổ khóa cho P cất vào túi quần, lúc này P nhìn thấy bên tay trái có ánh đèn của camera nên P dùng tay chụp camera xuống để không bị phát hiện, rồi cả hai đi vào bên trong tìm tài sản, P lấy trộm 01 bật lửa hiệu Zippo màu trắng để trên bàn thờ ông địa, bên trái cửa ra vào cất vào ba lô của P. Sau khi trộm cắp được tài sản, T1 đi ra xe đồng bọn chở đi, còn P điều khiển xe một mình, trên đường đi, P lấy ổ khóa cửa của nhà 2 Đ, Phường A, quận P vứt xuống đường (không rõ địa chỉ). Khi đi đến giao lộ đường N và T, Phường E, quận B, P bị Công an kiểm tra đưa về làm việc, riêng đồng bọn bỏ đi không rõ. Tại Công an P1, quận B, Trần Văn P khai nhận hành vi trộm cắp tài sản tại nhà số B Đ, Phường A, quận P. Sau đó, Công an P1, quận B chuyển Cơ quan điều tra Công an quận P điều tra, xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Theo kết luận ngày 22/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 02 ổ khóa Việt Tiệp, màu vàng, giá trị 160.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Oppo F5, giá trị 1.300.000 đồng; 01 hộp quẹt Zippo màu bạc, giá trị 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 1.510.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại ông Phạm Vũ H1 đã nhận lại tài sản đối với điện thoại di động hiệu Oppo F5 hiện chưa thu hồi được đã được gia đình bị cáo bồi thường.

Đối với ông Nguyễn Tuấn K và bà Trần Thị N xác nhận nhà G106 G303 Chung cư A P, Phường D, quận P không bị mất tài sản, nên không trình báo và làm đơn không có yêu cầu gì.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSPN ngày 15 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo P mức án từ 02 (hai) năm 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến tranh luận của bị cáo: Không có ý kiến tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an quận P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các văn bản tố tụng có trong hồ sơ vụ án như bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung, kết luận định giá... đều được tiến hành theo đúng quy định; tại các bản khai, biên bản hỏi cung và các tài liệu khác bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng có trong hồ sơ vụ án của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Văn P thừa nhận hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, cụ thể: Khoảng 02 giờ 45 phút ngày 18/12/2022, Trần Văn P cùng đồng bọn tên T1 và đối tượng đi cùng T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gồm 01 điện thoại di động hiệu Oppo F5, màu hồng; 01 bật lửa hiệu Zippo màu bạc; 02 ổ khóa cửa hiệu Việt Tiệp màu vàng đồng của ông Phạm Vũ H1 tại địa chỉ số B Đ, Phường A, quận P, Thành phố H.

Nhận thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng được thể hiện qua các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung, nội dung ghi hình camera; biên bản xác minh địa điểm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào bản kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì tổng giá trị tài sản bị mất trộm trị giá 1.510.000 đồng. Mặc dù giá trị tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng do bị can P đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, đã có đủ cơ sở khẳng định bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ tài sản trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt; nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo, qua đó răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại, nên cần áp dụng điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng trong vụ án:

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại, bị hại ông Phạm Vũ H1 có đơn xin xét xử vắng mặt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với: 01 mũ bảo hiểm màu đen; 01 áo sơ mi dài tay, cánh tay phải màu đen, cánh tay trái màu trắng có chữ Hollister California màu đen ở trước ngực bên trái; 01 quần dài màu đen, có túi hai bên đùi sọc trắng (P mặc khi đi trộm cắp tài sản) 01 ba lô, màu xám (chứa kìm cộng lực và các tài sản trộm được); đây là những vật không còn giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng thấp nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 kìm cộng lực bằng kim loại màu đen cam hiệu INGCO (dụng cụ P dùng để bẻ khóa cửa trộm cắp tài sản) cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với: 01 điện thoại di động Jemes Smith Joy 3, màu trắng (đây là điện thoại cá nhân của Trần Văn P), không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng, biển số: 59B 1-xxxxx do ông Trần Văn Đ đứng tên chủ sở hữu, ông Đ ký hợp đồng ủy quyền cho bà Võ Thị T (dì ruột bị can P), bà T cho P mượn xe làm phương tiện đi lại và không biết P sử dụng đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà T là có căn cứ.

[6]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Đối với các đối tượng tên T1 và đi cùng T1, cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với P, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt: Trần Văn P 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2022.

3. Về các vấn đề khác:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 mũ bảo hiểm màu đen; 01 áo sơ mi dài tay, cánh tay phải màu đen, cánh tay trái màu trắng có chữ Hollister California màu đen ở trước ngực bên trái; 01 quần dài màu đen, có túi hai bên đùi sọc trắng; 01 ba lô, màu xám; 01 kìm cộng lực bằng kim loại màu đen cam hiệu INGCO.

Lưu giữ trong hồ sơ vụ án: 01 USB Kingston màu đỏ ghi hình sự việc Trần Văn P thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Trả lại cho bị cáo P: 01 điện thoại di động Jemes Smith Joy 3, màu trắng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/03/2023 giữa Công an quận P và Chỉ cục Thi hành án dân sự quận P).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về