Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH E

BẢN ÁN 28 /2022/HS-ST NGÀY 16/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh E, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Thị Mỹ L, sinh ngày: 10/5/1981; giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký thường trú: ấp Thừa Thạnh, xã Thừa Đ, huyện B, tỉnh E; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Trần Văn Nh (Đã chết) và bà Ngô Thị D, sinh năm 1962; Bị cáo có 04 người em ruột, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1994. Bị cáo sống chung như vợ chồng với anh Trương Văn Đ, sinh năm 1981, nơi cư trú: ấp Thừa Thạnh, xã Thừa Đ, huyện B, tỉnh E. Bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2014. Quá trình hoạt động: Từ 12 tuổi đến năm 2022 sống tại xã Thừa Thạnh, xã Thừa Đ, huyện B. Đến ngày 24/6/2022 thì phạm tội.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị can bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/8/2022 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

– Người bị hại: Phạm Thị Cẩm Nh, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp Thừa Long, xã Thừa Đ, huyện B, tỉnh E. Chị Phạm Thị Cẩm Nh có đơn xin xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 50 phút ngày 24/6/2022, Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1981, cư trú ấp Thừa Thạnh, xã Thừa Đ, huyện B điều khiển xe mô tô biển số 71S3-X chở theo dì ruột là bà Ngô Thị N, sinh năm 1959, ngụ cùng ấp đến vựa hải sản của ông Nguyễn Thanh H thuộc ấp 6, xã Bình Thắng, huyện B để mua hải sản. Lúc này, bà N đi vào trước, L đi vào sau. Khi L đi đến cửa vựa thì thấy một cái bóp màu đen để trong túi nylon màu trắng máng trên gương chiếu hậu bên trái xe mô tô biển số 71C1 – X của bà Phạm Thị Cẩm Nh, sinh năm 1987, cư trú ấp Thừa Long, xã Thừa Đ, huyện B không người trông coi. Bên trong bóp có đựng số tiền 6.890.000 đồng; 08 USD; 03 chìa khóa nhà; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Phạm Thị Cẩm Nh; 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Phạm Hoàng N; 01 túi vải màu đỏ không có tài sản bên trong. L liền nảy sinh ý định trộm cái bóp trên, L dùng tay lấy cái bóp, kẹp vào nách bên phải sau đó đi vào vựa hải sản. Sau khi bà N mua hải sản xong thì bà N, L ra xe. L để cái bóp vừa trộm được lên yên xe rồi ngồi lên bóp, tiếp tục chở bà N đến Công an huyện Châu Thành, tỉnh E. Đến nơi, bà N vào Công an huyện Châu Thành có việc riêng, L ở ngoài đợi bà N. Trong lúc đợi L mở bóp vừa trộm được ra xem thì thấy bên trong có tài sản. L liền giấu cái bóp trên vào bên trong cốp xe mô tô biển số 71S3 – X. Trên đường chở bà N về nhà, đến khu vực chợ B thì bị lực lượng Công an xã Bình Thắng yêu cầu dừng xe lại, kiểm tra và mời về Công an xã làm việc, tại đây L khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình. (Bút lục số 120, 121, 138, 139, 163, 164, 184, 185).

Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng gồm:

- 01 cái bóp nữ, màu đen; số tiền 6.890.000 đồng; 08 USD; 03 chìa khóa nhà; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Phạm Thị Cẩm Nh; 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Phạm Hoàng N; 01 túi vải màu đỏ không có tài sản bên trong.

- 01 xe mô tô biển số 71S3-X, nhãn hiệu VINA WIN (do quá trình sử dụng thì xe bị hư hỏng nên đã được chủ xe thay lốc máy khác có nhãn hiệu là LONGIN), số máy: FMH-00016078, số khung: UUM5H-016078, màu xanh đen, xe đã qua sử dụng bị trầy xước nhiều nơi.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 14/ KL-HĐĐG ngày 11/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận: 01 bóp nữ, màu đen, có hai ngăn kéo, một dây quai màu đen, trên bóp có logo chữ “X” và chữ “L” lòng vào nhau tại thời điểm bị mất trộm có giá trị là 100.000 đồng; 03 tờ giấy bạc có mệnh giá 08 USD tại thời điểm bị mất trộm có giá trị là 186.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trên tại thời điểm bị mất trộm là 286.000 đồng. (Bút lục số: 68) Ngày 09/8/2022, Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho bà Phạm Thị Cẩm Nh: 01 cái bóp nữ, màu đen; số tiền 6.890.000 đồng; 08 USD; 03 chìa khóa nhà; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Phạm Thị Cẩm Nh; 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Phạm Hoàng N, 01 túi vải màu đỏ không có tài sản bên trong (bút lục số 65).

Quá trình điều tra, Trần Thị Mỹ L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp lời khai người bị hại, tang vật thu giữ, kết quả khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập.

Tại bản Cáo trạng số 30/CT-VKSBĐ ngày 18 tháng 10 năm 2022 Viện Kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Trần Thị Mỹ L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, luận tội và tranh luận:

- Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Thị Mỹ L và đề nghị Hội đồng tuyên bố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản h, i, s khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L mức án từ 06 (sáu) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 02 năm, thời hạn tù tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không xét đến.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Trần Thị Mỹ L 01 xe mô tô biển số 71S3- X, nhãn hiệu VINA WIN (do quá trình sử dụng thì xe bị hư hỏng nên đã được chủ xe thay lốc máy khác có nhãn hiệu là LONGIN), số máy: FMH- 00016078, số khung: UUM5H-016078, màu xanh đen, xe đã qua sử dụng bị trầy xước nhiều nơi.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Thị Mỹ L khai nhận: Do hoàn cảnh khó khăn, nên mới nảy sinh ý định trộm cắp. Bị cáo xác định bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng, không có ý kiến gì.

Quá trình điều tra bị hại bà Phan Thị Cẩm Nh trình bày bà đã nhận lại toàn bộ tài sản đã bị mất nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin lỗi gia đình bị hại, bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Việc vắng mặt của bị hại có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét thấy vắng mặt bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án vì đã có lời khai ở cơ quan điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị hại là phù hợp theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự.

[3] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Mỹ L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với các tình tiết của vụ án cũng như các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của bị hại cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo L đã có hành vi lợi dụng lúc sơ hở tài sản không người trong coi đã lấy trộm của bà Phạm Thị Cẩm Nh 01 cái bóp nữ, màu đen trong đó số tiền chiếm đoạt là 6.890.000 đồng; 08 USD; và 03 chìa khóa nhà; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Phạm Thị Cẩm Nh; 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Phạm Hoàng N, 01 túi vải màu đỏ không có tài sản bên trong.

[4] Tại Theo kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐG ngày 17/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện B xác định một bóp nữ màu đen có chữ ‘X’và ‘L’ và 08USD có giá trị tại thời điểm mất trộm là 286.000đồng cùng số tiền 6.890.000 đồng.

[5] Xét hành vi của bị cáo Trần Thị Mỹ L là nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động bình thường của nhân dân, gây tâm lý hoang man lo sợ, cho người dân nơi bị cáo sinh sống cũng như làm mất an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra tội phạm. Trước trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực để nhận biết được việc lén lút lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị xã hội lên án. Do động cơ tư lợi bất chính nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Cáo trạng số 30/CT-VKSBĐ ngày 18/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh E đã truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[6] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, hậu quả làm tổn thất vật chất của người khác, ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương.

[7] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, do đó bị cáo là người có nhân thân tốt.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định Điều 52 Bộ luật hình sự.

[9] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thấy: Bị cáo Trần Thị Mỹ L có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là phạm tội gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[10] Về điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, Hội đồng xét xử xét thấy Bị cáo L có đủ các điều kiện theo hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Cụ thể khung hình phạt bị xử phạt bị cáo không quá 03 năm tù, bị cáo có nhân thân tốt, có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã xội, trên cơ sở xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, động cơ và mục đích phạm tội. Xét thấy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ tính răn đe của pháp luật, bị cáo cũng có khả năng tự cải tạo tại địa phương không gây nguy hiểm, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Phan Thị Cẩm Nh đã nhận lại toàn bộ tài sản là 01 cái bóp nữ, màu đen trong đó số tiền chiếm đoạt là 6.890.000 đồng; 08 USD; và 03 chìa khóa nhà; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Phạm Thị Cẩm Nh; 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Phạm Hoàng N, 01 túi vải màu đỏ không có tài sản bên trong, đồng thời chị Nhung không có yêu cầu gì nên không đặt vấn đề giải quyết.

[12] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy, chiếc xe mô tô biển số 71S3-X bị cáo khai ban đầu mục đích không dùng xe để trộm, ý định trộm của bị cáo phát sinh bộc phát nhất thời, sau khi phát hiện cái bóp không người trong coi mới phát sinh hành vi trộm cắp vì vậy áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Trần Thị Mỹ L 01 xe mô tô biển số 71S3-X, nhãn hiệu VINA WIN (do quá trình sử dụng thì xe bị hư hỏng nên đã được chủ xe thay lốc máy khác có nhãn hiệu là LONGIN), số máy: FMH- 00016078, số khung: UUM5H-016078, màu xanh đen, xe đã qua sử dụng bị trầy xước nhiều nơi.

[13] Riêng đối với bà Ngô Thị N đi chung xe với Trần Thị Mỹ L nhưng bà N hoàn toàn không biết việc L trộm cắp tài sản, nên không xem xét xử lý. (bút lục số 140, 196, 200, 201).

[14] Lời kết luận tội và tranh luận của Kiểm sát viên đề nghị về tội danh, hình phạt phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[15] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Thị Mỹ L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 36, 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12(Mười hai) tháng, thời gian thử thách bắt đầu tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/11/2022.

Giao bị cáo Trần Thị Mỹ L cho Ủy ban nhân dân xã Thừa Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Lut thi hành án hình s. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản nên không xem xét giải quyết.

[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Trần Thị Mỹ L 01 xe mô tô biển số 71S3- X, nhãn hiệu VINA WIN (do quá trình sử dụng thì xe bị hư hỏng nên đã được chủ xe thay lốc máy khác có nhãn hiệu là LONGIN), số máy: FMH- 00016078, số khung: UUM5H-016078, màu xanh đen, xe đã qua sử dụng bị trầy xước nhiều nơi.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Thị Mỹ L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh E xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa cũng được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh E xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về