Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện NL, tỉnh Th

 xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/HSST ngày 24 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

- Quách Thị N - Sinh năm 1989, tại xã Ngọc Trung, huyện NL, tỉnh Th; Nơi cư trú: Thôn TP, xã NT, huyện NL, tỉnh Th, nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; Bố không xác định được, mẹ Quách Thị L; chồng: Quách Văn H; con: Có 02 con lớn 11 tuổi, nhỏ 06 tuổi. Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Dương Thị D - Sinh năm 1994. (Vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố NM, thị trấn NL, huyện NL, tỉnh Th.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 30/01/2021 Công an huyện NL tiếp nhận tin báo của chi Dương Thị D, về việc ngày 18/01/2021 chị đi làm tại công ty may P ở phố L ĐC, TT NL, huyện NL, bị mất số tiền 3.700.000 (ba triệu bảy trăm nghìn đồng) trong cốp xe máy.

Ngày 01/02/2021 Quách Thị N đến Cơ quan CSĐT công an huyện NL để tự thú và khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 18/01/2021, sau khi hết giờ làm việc buổi sáng tại Công ty TNHH P tại Phố LĐC, TT NL, huyện NL, Quách Thị N đi đến nhà xe của Công ty để lấy thuốc uống trong xe mô tô của mình. Khi lấy được thuốc xong, trong lúc quay lại nhà xưởng để làm việc thì N thấy một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Vision của công nhân để tại nhà để xe số 3 có 01 (một) chiếc khẩu trang đang treo ở giá để đồ, N đi lại gần đưa tay lên để lấy khẩu trang và bấm nút mở cốp xe, nghe thấy cốp xe đã mở, nên N mở cốp xe thì phát hiện bên trong có 01 (một) chiếc mũ bảo hiểm và 01 (một) ví da sọc kẻ caro, N mở ví thì thấy bên trong có tiền, N đã lấy toàn bộ số tiền ở trong ví bỏ vào túi áo, đóng cốp xe lại rồi tiếp tục đi vào xưởng để làm việc. Quá trình làm việc N đi vệ sinh và kiểm đếm số tiền trộm cắp được là 3.700.000 đồng (ba triệu bảy trăm nghìn đồng) rồi bỏ vào túi áo quay trở lại xưởng may làm việc, sau khi có tiền N đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết. Đến ngày 01/02/2021 N đã đến Cơ quan công an huyện NL tự thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Về vật chứng vụ án: Số tiền 3.700.000 đồng trộm cắp được N đã dùng hết vào việc tiêu sài cá nhân, nên không có đủ căn cứ để tiến hành truy thu làm vật chứng của vụ án. Quá trình điều tra N đã trực tiếp trả lại số tiền này cho bị hại Dương Thị D.

Về phần dân sự: Quá trình điều tra Quách Thị N đã trả lại số tiền đã trộm cắp đồng thời bồi thường thiệt hại cho chị Dương Thị D số tiền 4.200.000 đồng (bốn triệu hai trăm nghìn đồng), chị D không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Quách Thị N.

Bản cáo trạng số 25 ngày 24/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện NL đã truy tố Quách Thị N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Miễn khấu trừ thu nhập, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà Quách Thị N đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội và tỏ thái độ ăn năn hối cải, Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện hành vi, quyết định tố tụng phù hợp pháp luật, không bị khiếu nại bị tố cáo phải giải quyết.

[2]. Về căn cứ định tội và định khung hình phạt đối với bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 18/01/2021 Quách Thị N đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 3.700.000đ (Ba triệu, bảy trăm nghìn đồng) của chị Dương Thị D. Viện kiểm sát nhân dân huyện NL, truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây dư luận xấu trong nhân dân. Để giữ nghiêm pháp luật và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, phải lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã đến Công an huyện NL tự thú khai nhận hành vi trộm cắp của mình mà không ai biết và tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền trộm cắp cho người bị hại, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, nên áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự, quy định về cải tạo không giam giữ đối với bị cáo, cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo lao động tự do thu nhập không ổn định, nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Quách Thị N.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Quách Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

n cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đối với bị cáo Quách Thị N.

Xử phạt: Bị cáo Quách Thị N 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã NT, huyện NL, tỉnh Th nhận được bản án và quyết định thi hành án. Miễn khấu trừ thu nhập trong thời gian thi hành án cải tạo và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Quách Thị N.

Giao bị cáo Quách Thị N cho Ủy ban nhân dân xã NT, huyện NL, tỉnh Th giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Quách Thị N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Quách Thị N, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 15/6/2021. Người bị hai chị Dương Thị D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2021/HS-ST

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về