Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn T, sinh năm 1995, tại huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn N và bà Lê Thị N (đã chết); chưa có vợ, con;

Tiền án: 02 lần. Ngày 26/6/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong ngày 28/4/2020 và đã nộp án phí; Ngày 01/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 04/10/2021, đã nộp án phí. Chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không;

Nhân thân: từ nhỏ sống chung với cha mẹ, đi học đến lớp 7 nghỉ.

+ Ngày 17/3/2010, bị Ủy ban nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian 24 tháng, về hành vi “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong ngày 08/4/2012;

+ Ngày 11/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 23/02/2013 (khi chưa thành niên);

+ Ngày 07/8/2013, bị Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 02/8/2014 (khi chưa thành niên);

Bị tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 19/11/2021 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Bị hại:

1) Nguyễn Văn N, sinh năm 1972; địa chỉ: ấp L, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt;

2) Nguyễn Thu H, sinh năm 1976; địa chỉ: ấp L, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt;

3) Nguyễn Trường P, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp L, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt;

4) Nguyễn Thị Thúy A, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp L, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1) Tôn Tấn P, sinh năm 1990;

2) Đào Văn Công C, sinh năm 1972;

3) Lê Văn B, sinh năm 1988;

4) Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1957;

5) Lê Văn M, sinh năm 1983;

6) Nguyễn Thị T, sinh năm 1973;

7) Nguyễn Hoàng Quí N, sinh năm 1984.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu c trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài, khoảng 21 giờ ngày 09/11/2021, Huỳnh Văn T (đã 02 lần bị kết án về tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, chưa được x a án tích) đi bộ đến khu vực ấp L, thị trấn C để tìm tài sản lấy trộm. Khi đến nhà của Nguyễn Trường P, Nguyễn Thị Thúy A (vợ của P), T lén đột nhập vào bên trong nhà lấy trộm 01 sợi dây chuyền bằng bạc, có mặt dây chuyền hình phật, 1.500.000đồng và 16 thẻ bảo hiểm y tế đã hết hạn sử dụng (không còn giá trị) của P, A cất giấu vào túi quần, rồi T trốn dưới gầm gường ngủ của P, A. Khi này, P, A phát hiện tài sản bị mất trộm, kiểm tra trong nhà thấy T nằm trốn dưới gầm gường ngủ, nên P điện thoại trình báo Công an thị trấn C để bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ vật chứng có liên quan. Cùng ngày, T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới ra quyết định tạm giữ.

Quá trình điều tra, còn xác định: Trước đó, khoảng 23 giờ ngày 01/11/2021, T cùng Lê Văn B (bạn của T) đi xiệt bắt cá ở các mương nước phía sau quán “M” thuộc ấp L, thị trấn C, do Nguyễn Văn N, Nguyễn Thu H (vợ của N) làm chủ.T nảy sinh ý định lấy trộm tài sản, nên không tiếp tục đi xiệt bắt cá cùng với B, mà T lén đôt nhập vào bên trong quán lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M32 màu xanh, c gắn sim Vinaphone số thuê bao 0943771624 và 01 máy tính bảng hiệu Samsung T295 màu đen, rồi đi bộ về nhà.

T bán tài sản lấy trộm được cho người lạ mặt (không rõ họ, tên, địa chỉ) được 2.400.000đồng, tiêu xài cá nhân hết.

- Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng: 16 thẻ bảo hiểm y tế, 01 sợi dây chuyền, 01 mặt dây chuyền hình phật và 1.500.000đồng đã trả lại cho P và A; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 màu đen, 01 cái nón kết màu đen, 01 cây dao bằng kim loại nguyên khối màu bạc dài 21,5cm của T, đang tạm giữ để xử lý.

- Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 59/KL-HĐĐG.TTHS ngày 12/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới:

01 máy tính bảng hiệu Samsung T295 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M32 màu xanh và 01 sim Vinaphone số thuê bao 0943771624 (của Nguyễn Văn N, Nguyễn Thu H), c tổng trị giá 6.100.000đồng.

- Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 60/KL-HĐĐG.TTHS ngày 15/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới:

01 sợi dây chuyền bằng bạc, trọng lượng 01 chỉ 04 phân và 01 sợi dây chuyền hình phật có đính khoen làm bằng vàng 18Kara, trọng lượng 01 phân (của Nguyễn Trường P, Nguyễn Thị Thúy A), có tổng trị giá 540.000đồng.

Ngày 19/11/2021, T bị khởi tố, tạm giam để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 17/CT-VKSCM ngày 05 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa,

- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Bên cạnh đó , bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu do đã 01 lần bị xử lý vi phạm hành chính, 02 lần bị kết án đều về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không sửa đổi mà còn tiếp tục phạm tội.

Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị báo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, do tài sản bị chiếm đoạt đã được giao trả cho bị hại nên đề nghị không đề cập đến; đối với tài sản của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 màu đen, 01 cái nón kết màu đen, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo; đối với 01 cây dao bằng kim loại nguyên khối màu bạc dài 21,5cm bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự, do bị hại Nguyễn Trường P, Nguyễn Thị Thúy A được cơ quan điều tra trao trả tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bồi thường nên đề nghị không đề cập giải quyết; bị hại Nguyễn Văn N, Nguyễn Thu H yêu cầu T bồi thường số tiền 7.300.000đồng. Đối với số tiền 1.200.000đồng bị hại khai bị mất trộm, bị cáo không thừa nhận lấy, bị hại không có chứng cứ chứng minh nên không được chấp nhận; đối với điện thoại di động và máy tính bảng bị cáo thừa nhận có lấy và bán cho người lạ, bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại theo kết quả định giá cho nên đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản theo định giá là 6.100.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Huỳnh Văn T khai nhận, do không có tiền tiêu xài, bị cáo nảy sinh ý định tìm tài sản sơ hở lấy trộm, khoảng 21 giờ ngày 09/11/2021, bị cáo đi bộ đến khu vực ấp L, thị trấn C để tìm tài sản lấy trộm. Khi đến nhà của Nguyễn Trường P, Nguyễn Thị Thúy A, T lén đột nhập vào bên trong nhà lấy trộm 01 sợi dây chuyền bằng bạc, có mặt dây chuyền hình phật, 1.500.000 đồng và 16 thẻ bảo hiểm y tế của P, A cất giấu vào túi quần, rồi bị cáo trốn dưới gầm gường ngủ của P, A. Khi này, P, A phát hiện tài sản bị mất trộm, kiểm tra trong nhà thấy bị cáo nằm trốn dưới gầm gường ngủ, nên P điện thoại trình báo Công an thị trấn C để bắt người phạm tội quả tang.

Bị cáo xác định trước đó, khoảng 23 giờ ngày 01/11/2021, bị cáo cùng Lê Văn B đi xiệt bắt cá ở các mương nước phía sau quán “M” thuộc ấp L, thị trấn C, bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm tài sản, nên không tiếp tục đi xiệt bắt cá cùng với B, mà bị cáo lén đôt nhập vào bên trong quán lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M32 màu xanh, có gắn sim Vinaphone số thuê bao 0943771624 và 01 máy tính bảng hiệu Samsung T295 màu đen, rồi đi bộ về nhà.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 09/11/2021 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 10/11/2021 và ngày 18/11/2021 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập. Ngoài ra, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ. Từ các chứng cứ trên, có cơ sở xác định, khi phát hiện chủ sở hữu sơ hở trong việc bảo quản tài sản, bị cáo đã hai lần lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Mỗi lần chiến đoạt tài sản trên 2.000.000đồng đủ định lượng cấu thành tội phạm.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đã 02 lần bị kết án về tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, bị cáo nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại là xâm phạm quyền sở hữu của người khác nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc lợi dụng chủ sở hữu đang ngủ, sơ hở trong việc bảo quản tài sản và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, quyền sở hữu là một trong những quyền thiêng liêng gắn với mỗi cá nhân, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong lĩnh vực luật hình sự, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Bị cáo là người đang ở tuổi lao động. Đáng lẽ, bị cáo phải tìm cho mình một công việc phù hợp để nuôi sống bản thân, gia đình nhưng vì hám lợi, bị cáo trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bên cạnh đó , khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã hai lần chiếm đoạt tài sản của người khác. Mỗi lần chiến đoạt tài sản trên 2.000.000đồng đủ định lượng cấu thành tội phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”. Hơn nữa, bị cáo có nhân thân không tốt do đã bị đã bị Ủy ban nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian 24 tháng về hành vi “Cướp giật tài sản” vào ngày 17/3/2010; bị Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào ngày 11/9/2012 và bị Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào ngày 07/8/2013. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, do bị cáo làm thuê kiếm sống, thuộc thành phần lao động nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã giao trả cho bị hại cho P và A 16 thẻ bảo hiểm y tế, 01 sợi dây chuyền, 01 mặt dây chuyền hình phật và 1.500.000đồng là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự nên không đề cập xử lý lại.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 màu đen, 01 cái nón kết màu đen, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên được trả lại cho bị cáo;

Đối với 01 cây dao bằng kim loại nguyên khối màu bạc dài 21,5cm bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự, sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, bị hại Nguyễn Trường P, Nguyễn Thị Thúy A không yêu cầu bồi thường nên đề nghị không đề cập giải quyết; bị hại Nguyễn Văn N, Nguyễn Thu H yêu cầu T bồi thường số tiền 7.300.000đồng gồm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M32 màu xanh, có gắn sim Vinaphone số thuê bao 0943771624; 01 máy tính bảng hiệu Samsung T295 màu đen và số tiềm mất trộm là 1.200.000đồng. Đối với số tiền 1.200.000đồng bị hại khai bị mất trộm, bị cáo không thừa nhận lấy, bị hại không c chứng cứ chứng minh nên không được chấp nhận; đối với điện thoại di động và máy tính bảng bị cáo thừa nhận có lấy và bán cho người lạ được số tiền là 2.400.000đồng, theo kết luận định giá có giá trị là 6.100.000đồng, tại phiên tòa bị cáo T đồng ý bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn N, Nguyễn Thu H theo kết quả định giá cho nên buộc bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản theo định giá là 6.100.000đồng.

[8] Đối với việc bị cáo T khai Lê Văn B cùng với bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp của Nguyễn Văn N, Nguyễn Thu H; T c chia tiền cho B. Trong quá trình điều tra, B không thừa nhận, ngoài lời khai của T không có chứng cứ khác, hiện B cũng đã đi khỏi địa phương nên không tiến hành đối chất được, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 305.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại c quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản;

Xử phạt: Huỳnh Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, ngày 10/11/2021 (ngày mười, tháng mười một, năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

2.Về dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự;

Buộc bị cáo Huỳnh Văn T phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm hại cho ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Thu H số tiền là 6.100.000đồng (Bằng chữ:

Sáu triệu một trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 màu đen, 01 cái nón kết màu đen. Do bị cáo có nghĩa vụ về tài sản nên được tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cây dao bằng kim loại nguyên khối màu bạc dài 21,5cm (Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 305.000đồng (Bằng chữ: Ba trăm lẻ năm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về