Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 24/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 3 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2020/TLST- HS ngày 06 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Phương M; giới tính: Nữ; sinh năm 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Đường T, Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Đường N, phường B, Thị xã A, Bình Dương; nghề nghiệp: thợ làm tóc; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn K, sinh năm 1950 (chết) và bà: Nguyễn Thị M1, sinh năm 1950; Hoàn cảnh gia đình: có chồng (chết) và 01 con sinh năm 2002); Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/10/2019 đến ngày 24/10/2019; bị cáo tại ngoại (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh M Thăng L, sinh năm: 1987; Địa chỉ: Ấp 7, xã H, huyện M, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Bé N, sinh năm 1970, địa chỉ: Ấp 2, xã N, huyện H, Vĩnh L. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 20 phút ngày 17/10/2007, Nguyễn Thị Phương M qua phòng trọ của ông M Thăng L tại số 74 T, phường 11, quận Tân Bình chơi. Trong lúc ông L đi tắm, M nhìn thấy điện thoại di động Nokia N72 của ông L để trong phòng thì nảy sinh ý định trộm để bán lấy tiền tiêu xài. M lấy điện thoại bỏ vào túi quần rồi đi về. Sau đó M đem điện thoại trộm được đến cửa hàng điện thoại di động T tại số 626 H , Phường 4, quận Tân Bình bán với giá 2.500.000 đồng. M đổi lấy 01 điện thoại Samsung E330 giá 900.000 đồng, mua 01 card điện thoại 100.000 đồng và nhận số tiền 1.500.000 đồng rồi tiêu xài hết. Ông L sau khi phát hiện mất tài sản đã đến công an trình báo sự việc. Ngày 19/10/2007, tại Công an phường 11, quận Tân Bình, Nguyễn Thị Phương M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Tài sản là điện thoại di động Nokia N72 đã được thu hồi trả cho người bị hại. Đến ngày 15/10/2019, M bị bắt theo lệnh truy nã.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 125/HĐĐGTS-TTHS ngày 22/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND quận Tân Bình: điện thoại di động Nokia N72 trị giá 2.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 22/Ctr-VKSTB ngày 04 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Phương M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Thị Phương M, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội ph hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều ph hợp với quy định của pháp luật.

2 Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo ph hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng c ng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Phương M đã có hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại di động trị giá 2.500.000 đồng của anh M Thăng L. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, lười lao động nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo sau khi được tại ngoại điều tra đã không chấp hành nghiêm lệnh cấm đi khỏi nơi cú trú, đi khỏi địa phương trong thời gian dài gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt t có thời hạn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

3 Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản thu hồi và trả cho người bị hại;. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

4 Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5 Về tang vật vụ án: Thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung E330, xét đây là tài sản do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Phương M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Thị Phương M 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giam trước từ ngày từ ngày 15/10/2019 đến ngày 24/10/2019.

[2] Xử lý vật chứng của vụ án:

Tịch thu và nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Samsung E330 màu trắng (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 20/PNK ngày 31/01/2020 của Công an quận Tân Bình).

3 Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4 Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ lien quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2020/HS-ST

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về