Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/TLST-HS, ngày 23 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Đức L; tên gọi khác: Không; sinh ngày 14 tháng 01 năm 1998, tại huyện K, tỉnh Hải Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Ph, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương; chỗ ở trước khi phạm tội: Số x, thôn Ph, xã M, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn Kh (đã chết) và con bà Phạm Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số: 131/2019/HS-ST ngày 26/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích), lần phạm tội này là tái phạm; tiền sự: Có 01 tiền sự. Ngày 07/01/2019 bị Công an huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, theo Quyết định số: 16/QĐ-XPVPHC ngày 07/01/2019 mức phạt tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) đến nay chưa thi hành khoản tiền này (chưa được xóa);

nhân thân: Đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể: Bị cáo bị đưa vào Trường Giáo dưỡng theo Quyết định số 2009/QĐ-UB-NC ngày 13/8/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương và năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 05 (năm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội Trộm cắp tài sản (đã xóa án tích) theo Bản án số: 10/2016/HS-ST ngày 26/02/2016; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/3/2022, tạm giam từ ngày 18/3/2022 đến nay; có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1996; cư trú tại: Số c, tổ x, khối s, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đinh Việt H, sinh năm 1996; cư trú tại: Tổ x, khối b, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ ngày 12/3/2022, Phạm Đức L dậy đi tập thể dục buổi sáng, khi đi đến xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Phạm Đức L phát hiện trước sân nhà anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1996, tại số c, tổ x, khối s, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen, không có biển kiểm soát, chìa khóa vẫn cắm ở ổ điện, quan sát thấy không có ai Phạm Đức L nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe trên đem bán lấy tiền tiêu. Phạm Đức L đi vào trong sân dắt xe ra khỏi cổng khoảng 10 mét thì nổ máy, rồi điều khiển xe mô tô trộm được đi theo đường mòn thông ra đường Ng, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đem về nhà cất giấu. Đến khoảng 14 giờ ngày 12/3/2022, Phạm Đức L lấy chiếc xe mô tô trên đem đi tìm chỗ tiêu thụ, khi đi đến đường Tr, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn do xe không có biển kiểm soát nên tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ đã yêu cầu dừng lại để kiểm tra và đưa về trụ sở để làm việc. Tại đây Phạm Đức L khai nhận đã trộm chiếc xe trên tại sân nhà anh Nguyễn Văn D, trú tại: Số c, tổ x, khối s, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn để điều tra làm rõ.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Đức L về hành vi trộm cắp tài sản.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/KLĐGTSHS ngày 16/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cao Lộc kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen, biển kiểm soát 12P1-234.xx. Có số khung: RLCUE1340KY08579, số máy: E351E-123455 đã qua sử dụng, có giá trị là 19.390.000 đồng (mười chín triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng).

Đối với tang vật là 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen, có số khung: RLCUE1340KY08579, số máy: E351E-123455 khi bị bắt không có biển kiểm soát là xe của anh Đinh Việt H cho anh Nguyễn Văn D mượn, chiếc xe này là do anh Đinh Việt H mua tại cửa hàng xe Ph, đường Ng, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn ngày 28/5/2019, trị giá 32.500.000 đồng (ba mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng), thanh toán bằng hình thức trả góp. Do anh Đinh Việt H chưa trả hết tiền nên cửa hàng giữ lại giấy đăng ký xe và biển số xe là 12P1-234.xx. Hiện nay anh Đinh Việt H đã nhận lại giấy tờ và biển số xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã chuyển chiếc xe mô tô trên đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn để giải quyết theo quy định.

Tại Bản cáo trạng số: 20/CT-VKS ngày 20/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Phạm Đức L về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Bị hại anh Nguyễn Văn D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đinh Việt H vắng mặt, nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và có ý kiến xin lại chiếc xe mô tô.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Phạm Đức L phạm tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt bị cáo Phạm Đức L từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử

- Trả lại cho anh Đinh Việt H 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen, có số khung: RLCUE1340KY08579, số máy: E351E-123455 (không có biển kiểm soát).

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Nguyễn Văn D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đinh Việt H không yêu cầu bồi thường, nên đề nghị không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bị cáo Phạm Đức L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo hối hận về hành vi của bản thân và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại anh Nguyễn Văn D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đinh Việt H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; việc vắng mặt của anh Nguyễn Văn D và anh Đinh Việt H không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, do đó có căn cứ xác định: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 12/3/2022 Phạm Đức L lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đã lét lút lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen, biển kiểm soát 12P1-234.xx. Có số khung: RLCUE1340KY08579; số máy: E351E-123455 anh Nguyễn Văn D để ở trong sân nhà, tại số: Số c, tổ x, khối s, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn (chiếc xe mô tô này anh Nguyễn Văn D mượn của anh Đinh Việt H). Kết luận định giá tài sản chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen trị giá là 19.390.000 đồng (mười chín triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng). Hành vi lấy tài sản của người khác của bị cáo Phạm Đức L đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Phạm Đức L phạm tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy bị cáo có đủ khả năng để nhận thức việc thực hiện hành vi lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi này đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo đã từng bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản và bị xử phạt hành chính cũng về hành vi trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, nên cần xử lý nghiêm đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích. Cụ thể tại Bản án số: 131/2019/HS-ST ngày 26/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Phạm Đức L 09 (chín) tháng tù giam, về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm, nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo đã từng bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị xử phạt vi phạm hành chính và còn một tiền án, một tiền sự. Nên xác định bị cáo có nhân thân xấu.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp lao động tự do thu nhập không ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[10] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Nguyễn Văn D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đinh Việt H không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[11] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen (không có biển kiểm soát). Có số khung: RLCUE1340KY08579; số máy: E351E-123455, là tài sản của anh Đinh Việt H, nên Hội đồng xét xử trả lại cho anh Đinh Việt H.

[12] Về án phí: Bị cáo Phạm Đức L bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[13] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và một số nội dung khác phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 292 và các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Đức L phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Đức L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính ngày 12/3/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Đinh Việt H, cư trú tại: Tổ x, khối b, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh đen (không có biển kiểm soát). Có số khung: RLCUE1340KY08579; số máy: E351E-123455.

(Vật chứng trên được ghi chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Đức L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về