Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 235/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/8/2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 235/2023/TLST-HS ngày 26/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 234/2023/QĐXXST-HS ngày 03/8/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Hoàng Q - Sinh ngày: 22/8/2000, tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số nhà A, đường T, phường C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định.

Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; chức vụ: Không; trình độ học vấn: 6/12; họ và tên cha: Tạ Xuân L (đã chết); họ và tên mẹ: Trần Thị H, sinh năm: 1966; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 20 tháng 6 năm 2023, cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Đỗ Văn S, địa chỉ: Số H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

 * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn T, địa chỉ: Số H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

 2. Ông Nghiêm Hồng Q, địa chỉ: Khối B, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tạ Hoàng Q là đối tượng lang thang không có nơi cư trú nhất định. Khoảng 07 giờ sáng ngày 16/6/2023, Q một mình đi bộ trên đường P, thì thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 47K2-xxxx của ông Đỗ Văn S (sinh năm:

1960; trú tại: 120 Đinh Tiên Hoàng, phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột - Lúc này đang tập thể dục cách chiếc xe khoảng 500m và bị che khuất tầm nhìn), dựng trên vỉa hè đường P (trong khu vực hoa viên Tượng đài). Quan sát thấy không có người trông coi nên Q nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên để làm phương tiện đi lại. Sau đó, Q đi đến chiếc xe mô tô của ông S, lét lút trộm cắp chiếc xe này và dắt bộ về hướng đường Đ. Khi đi đến tiệm sửa xe mô tô “Thanh T”, tại địa chỉ: A, thì Q dắt chiếc xe vào trong tiệm và nói dối với anh Nguyễn T (sinh năm 1994, là chủ tiệm) đây là xe của Q do bị mất chìa khóa nên nhờ anh T rút dây chìa khóa để khởi động xe, anh T đồng ý nối lại dây ổ khóa điện chiếc xe trên. Sau đó, Q điều khiển chiếc xe trộm cắp của ông S đi xuống thành phố N để tìm người nhà nhưng không gặp nên quay trở lại thành phố Buôn Ma Thuột. Vào ngày 19/6/2023, khi Q đang điều khiển chiếc xe mô tô biển số 47K2-xxxx, của ông S lưu thông trên đường thì bị Công an phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện đưa về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an Q khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản nêu trên, cùng ngày Công an phường Tự An chuyển hồ sơ tài liệu cùng vật chứng của án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 114/KL- HĐĐGTS, ngày 23 tháng 6 năm 2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 47K2-xxxx (số máy 5VT209851; số khung AJ5VT23YA009851); trị giá: 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm ngàn đồng).

Tại Cáo trạng số 237/CT-VKS ngày 26/7/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Tạ Hoàng Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Tạ Hoàng Q từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam, ngày 20/6/2023 - Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 47K2-xxxx, do ông Nghiêm Hồng Q (sinh năm 1968; trú tại: Khối N), mua mới và đăng ký chủ sở hữu vào năm 2003. Năm 2013, do không có nhu cầu sử dụng nên ông Q tặng chiếc xe trên cho ông Đỗ Văn S là người thân của ông Q nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định. Ngày 19/7/2023, Cơ quan điều tra quyết định xử lý vật chứng giao trả chiếc trên cho ông S nhận quản lý, sử dụng.

+ Về trách nhiệm dân sự: Ông Đỗ Văn S không yêu cầu Tạ Hoàng Q phải bồi thường gì thêm.

Các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như nội dung tại bản Cáo trạng.

Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Tạ Hoàng Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên vào khoảng 07 giờ ngày 16 tháng 6 năm 2023, tại khu vực hoa viên Đ, Tạ Hoàng Q đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 47K2-xxxx, trị giá 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm ngàn đồng) của ông Đỗ Văng S, thì bị phát hiện xử lý. Do đó Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Tạ Hoàng Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi và muốn có tiền tiêu xài nên đã cố ý phạm tội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tạ Hoàng Q không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản do bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả cho người bị hại nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Các biện pháp tư pháp:

+ Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 47K2-xxxx, do ông Nghiêm Hồng Q (sinh năm 1968; trú tại: Đ), mua mới và đăng ký chủ sở hữu vào năm 2003. Năm 2013, do không có nhu cầu sử dụng nên ông Q tặng chiếc xe trên cho ông Đỗ Văn S là người thân của ông Q nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định. Ngày 19/7/2023, Cơ quan điều tra quyết định xử lý vật chứng giao trả chiếc trên cho ông S nhận quản lý, sử dụng.

+ Về trách nhiệm dân sự: Ông Đỗ Văn S không yêu cầu Tạ Hoàng Q phải bồi thường gì thêm.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với anh Nguyễn T là người đã có hành vi giúp bị cáo Tạ Hoàng Q khởi động chiếc xe mô tô biển số 47K2-xxxx. Tuy nhiên, tại thời điểm đấu nối ổ khóa điện chiếc xe trên anh T không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý, là phù hợp.

Đối với ông Đỗ Văn S là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 47K2-xxxx, nhưng đã không làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định. Do đó, Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã quyết định xử phạt hành chính ông Đỗ Văn S theo quy định tại điểm a, Khoản 4, Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo Tạ Hoàng Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Tạ Hoàng Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Tạ Hoàng Q: 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 20/6/2023.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra quyết định xử lý vật chứng giao trả chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 47K2-xxxx cho ông Đỗ Văn S nhận quản lý, sử dụng.

+ Về trách nhiệm dân sự: Ông Đỗ Văn S không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Tạ Hoàng Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2023/HS-ST

Số hiệu:235/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về