Bản án về tội trộm cắp tài sản số 234/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 234/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 261/2021/HSST ngày 09 tháng 11 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2021, đối với các bị cáo:

1/ HOÀNG TIẾN PH, sinh ngày 23/02/1988 tại thành phố Hà Nội.

HKTT: Xóm a, xã Ph Ph, huyện B V, thành phố Hà Nội.

Chỗ ở: Ấp T Ph, xã Đ, huyện Tr B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Tự do Trình độ học vấn: 3/12 Dân tộc : Kinh Giới tính : Nam Tôn giáo : Không Qu tịch : Việt Nam Con ông Hoàng Tiến Ph và bà Dương Thị N.

Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Vợ là Đinh Thị Thúy V, sinh năm 1994, có 01 con sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giam ngày 01/8/2021. (Có mặt)

2/ LÊ VĂN QU, sinh ngày 16/11/1998 tại tỉnh H.

HKTT: Ấp Ph H, xã Ph Ph, huyện Ph H, tỉnh H. Chỗ ở: Ấp T Ph, xã Đbc, huyện Tr B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 3/12 Dân tộc : Kinh Giới tính : Nam Tôn giáo : Không Qu tịch : Việt Nam Con ông Lê Văn Tru và bà Nguyễn Thị C.

Gia đình bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con thứ ba.

Vợ, con: Không Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giam ngày 01/8/2021. (Có mặt)

* Bị hại: Anh Phạm Văn D, sinh ngày 27/5/2006 Người đại diện theo pháp luật của cháu D: Chị Vi Thị Tru và anh Phạm Văn M.

Cùng địa chỉ: Ấp T Ph, xã Đbc, huyện Tr B, tỉnh Đ.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Huỳnh Thị Sơn Ng, sinh năm 1973 Địa chỉ: abc, ấp a, xã T Nh, huyện B Ch, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Anh Dƣơng Thanh H, sinh năm 1990 Địa chỉ: Khu phố a, thị trấn Tr B, huyện Tr B, tỉnh Đ.

3. Anh Đặng Vũ L, sinh năm 1996 Địa chỉ: Ấp a, thị trấn H Ph, huyện Nh Tr, tỉnh Đ.

(Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Tiến Ph và Lê Văn Qu cùng thuê phòng trọ tại ấp T Ph, xã Đ, huyện Tr B, tỉnh Đ để ở. Vào khoảng 18 giờ ngày 18/7/2021, trong lúc đang ngồi chơi trước cửa phòng trọ thì Ph và Qu thấy 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 54N8-xxxx của anh Phạm Văn D là người đến phòng trọ chơi đang dựng sát tường của phòng trọ không người trông coi thì Ph nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô làm phương tiện đi lại. Ph rủ Qu tham gia trộm cắp, Qu đồng ý. Sau đó, Qu đứng cảnh giới, còn Ph lén lút dắt xe mô tô ra khỏi khu nhà trọ, cách khoảng 400m, cất giấu trong bụi cây. Đến sáng ngày 19/7/2021, Ph và Qu đi bộ ra chỗ cất giấu lấy xe mô tô biển số 54N8-xxxx rồi điều khiển xe đến phòng trọ của Lê Anh L để cầm cố lấy 1.400.000đ, L tháo biển số xe vứt đi. Khoảng vài ngày sau, Ph quay lại trả tiền cho L chuộc xe mang về phòng trọ sử dụng và cho đối tượng tên Ẹc (không rõ lai lịch, địa chỉ) mượn xe đi chơi, khi Ẹc trả xe thì Qu phát hiện xe đã bị thay đổi một số bộ phận như bánh xe, phuộc xe, pô xe.

Sau khi phát hiện bị mất xe, anh D trình báo Công an xã Đ, huyện Tr B. Công an xã Đ đã tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ nơi Ph và Qu đang ở thì phát hiện có xe mô tô của anh Phạm Văn D. Ph và Qu đã khai nhận hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 54N8-xxxx của anh D vào ngày 18/7/2021 nêu trên.

Tại Bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T xác định xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 54N8-xxxx (đã qua sử dụng) có trị giá 5.000.000đ.

Ngày 01/8/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Hoàng Tiến Ph và Lê Văn Qu để điều tra.

Tại bản cáo trạng số 271/CT-VKS-HS ngày 08/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện T để xét xử đối với các bị cáo Hoàng Tiến Ph và Lê Văn Qu về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử bị cáo Hoàng Tiến Ph mức án từ 08 tháng đến 10 tháng tù; bị cáo Lê Văn Qu mức án từ 06 tháng đến 08 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Xe mô tô 54N8-xxxx có nguồn gốc hợp pháp nên Cơ quan CSĐT trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm Văn D nên không đề nghị xử lý.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Văn D đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác về phần dân sự.

- Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[2] Các bị cáo Hoàng Tiến Ph và Lê Văn Qu đều là những đối tượng sử dụng ma túy và không có việc làm ổn định. Vào khoảng 18 giờ ngày 18/7/2021 tại phòng trọ ở ấp T Ph, xã Đ, huyện Tr B, tỉnh Đ, các bị cáo Ph và Qu phát hiện thấy 01 xe mô tô hiệu Honda Wave, biển số 54N8-xxxx của anh Phạm Văn D dựng sát tường của phòng trọ, không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, lén lút dắt xe mô tô ra khỏi khu nhà trọ cất giấu, rồi mang đi cầm cố. Xe mô tô có trị giá 5.000.000đ. Do đó, các bị cáo Hoàng Tiến Ph và Lê Văn Qu đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định lại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác trái pháp luật, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Để có tiền tiêu xài, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích cá nhân mà các bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, quy tắc đạo đức xã hội, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo để nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân sống biết tuân thủ pháp luật.

[4] Xét về vai trò, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Các bị cáo cùng thực hiện một hành vi phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm nhưng ở mức độ giản đơn. Bị cáo Ph là người khởi xướng, rủ rê, lôi kéo, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Qu là đồng phạm có vai trò giúp sức, đứng cảnh giới và cùng đi cầm cố tài sản trộm cắp. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo Ph cao hơn bị cáo Qu.

[4.2] Các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Xe mô tô hiệu Honda, biển số 54N8-xxxx do chị Huỳnh Thị Sơn Ng đăng ký sử dụng, đã bán lại cho anh Dương Thanh H bằng giấy tay, chưa sang tên. Anh H bán lại cho anh Đặng Vũ L, anh L bán lại cho anh Phạm Văn D nhưng chưa sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh D là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại - anh Phạm Văn D đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác về phần dân sự nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Đối với Lê Anh L và đối tượng Ẹc (chưa rõ nhân thân, lai lịch), không có mặt ở địa phương nên tách ra để tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau là phù hợp. Đối với biển số xe mô tô 54N8-xxxx, Lê Anh L đã vứt bỏ, do chưa làm việc được với L nên Cơ quan điều tra chưa thu hồi được.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T về tội danh, hình phạt và án phí phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng đề nghị về phần hình phạt đối với các bị cáo có phần nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Tiến Ph và Lê Văn Qu phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Hoàng Tiến Ph 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2021.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Văn Qu 03 (ba) tháng 29 (hai mƣơi chín) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2021.

- Căn cứ khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự; Trả tự do cho bị cáo Lê Văn Qu ngay tại phiên tòa.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Qu hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc các bị cáo H Tiến Ph và Lê Văn Qu, mỗi người phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 234/2021/HS-ST

Số hiệu:234/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về