Bản án về tội trộm cắp tài sản số 229/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 229/2022/HS-ST NGÀY 14/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 194/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2022/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Văn T; sinh ngày 27 - 8 - 1989, tại thành phố H Nơi cư trú: Thôn 7, xã T, huyện N, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 và bà Đặng Thị Q; vợ là Nguyễn Thị V, có 04 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: + Ngày 23/10/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Phá hủy công trình công cộng, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Ngày 30/8/2010 đã chấp hành xong các quyết định của bản án.

+ Ngày 30/9/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 25/01/2013 đã chấp hành xong các quyết định của bản án.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ban quản lý vịnh H Địa chỉ trụ sở: số 166 đường L, phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Văn C – chức vụ: Phó trưởng phòng kỹ thuật và tu bổ tôn tạo cảnh quan thuộc Ban quản lý vịnh H Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17/7/2021, do thiếu tiền chi tiêu nên Lê Văn T rủ Đặng Xuân T2 (sinh năm 1998, trú tại: khu S, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh) đi đến thành phố H, tỉnh Quảng Ninh để trộm cắp dây cáp điện, T đồng ý. Cả hai đi từ phòng trọ của T tại thôn T, xã L, huyện N, thành phố H đến xưởng sửa chữa tàu thuyền của anh Vũ Văn H để lấy chiếc đò gỗ trước đó T đã thuê anh H gắn động cơ. Sau đó, T và T sử dụng đò đi theo đường biển đến thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 17 giờ cùng ngày thì đến neo đỗ tại khu vực biển gần Quảng Trường thành phố H để nghỉ lại. Khoảng 21 giờ cùng ngày, T mang theo các dụng cụ đã chuyển bị trước lên đảo Hòn Cam gần Cung cá heo, Toàn ở trên đò cảnh giới. Khi lên đảo, T cắt được 08 đoạn dây cáp điện, mỗi đoạn dài từ 09 mét đến 20 mét, tổng chiều dài khoảng hơn 100 mét. Đến khoảng 22 giờ ngày 17/7/2021 T gọi T2 lên đảo, cùng T kéo dây cáp điện lên đò và di chuyển đò được khoảng 50 mét thì bị Tổ công tác của Ban quản lý vịnh H phát hiện, cả hai nhảy xuống biển bỏ chạy. T2 bị giữ lại còn T trốn thoát.

Kết luận định giá tài sản số 125/KLĐGTS ngày 19/7/2021 của Hội đồng định gái tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố H xác định giá của tài sản tại thời điểm định giá: 131,5 mét dây cáp điện nhãn hiệu LS- VINA*Cu/XLPE/PVC 2x35+16 sqmm – 0.6/1kV*2011 đã qua sử dụng có giá trị 6.575.000 đ (Sáu triệu năm trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng).

Ngày 09/7/2022, Tùng đến Công an thành phố H đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lê Văn T khai nhận sự việc như đã nêu trên. Ngoài ra T còn khai: trước khi đi trộm cắp, T chuẩn bị dụng cụ gồm: kìm cộng lực, dao dọc giấy, đèn pin, bút thử điện và thức ăn, nước uống trên đường đi. Chiếc đò gỗ là do T mua của người không quen biết từ trước và đã thuê anh Vũ Văn H lắp động cơ, anh H không biết T sử dụng đò để đi trộm cắp. T còn thỏa thuận với T2: nếu trộm cắp được dây cáp điện thì sẽ bán lấy tiền và trừ đi tiền đồ mà T2 đã mua để đem đi, tiền còn lại sẽ chia nhau T2 40%, T 60% để chi tiêu cá nhân.

Đại diện của bị hại là Ban quản lý vịnh H có đơn trình báo và lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với nội dung vụ án.

Tại bản cáo trạng số 198/CT-VKSHL ngày 03/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Lê Văn T về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H có quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Văn T như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 09 đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đã được giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số 272/2021/HSST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H, nên không xem xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố đối với bị cáo, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Bị cáo Lê Văn T khai tại cơ quan điều tra và phiên tòa cơ bản phù hợp với nhau và phù hợp với nội dung vụ án về thời gian, địa điểm và sự việc bị cáo đã rủ Đặng Xuân T2 trộm cắp dây cáp điện của Ban quản lý vịnh H với mục đích bán lấy tiền ăn tiêu. Bị cáo là người trực tiếp chuẩn bị dụng cụ và trực tiếp cắt dây điện, T2 ở dưới đò Khi đang thực hiện hành vi thì bị phát hiện, bị cáo và T2 bỏ lại vật chứng, nhảy xuống biển bơi trốn. Bị cáo sợ hãi nên trốn từ ngày đó đến 09/7/2022 đã tự nguyện ra đầu thú, sau đó bị cáo được biết Đặng Xuân T2 đã bị bắt ngay lúc đó.

Đặng Xuân T2 đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xét xử ngày 09/11/2021 về hành vi cùng Lê Văn T trộm cắp tài sản như nội dung vụ án đã nêu.

T2 có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo T.

Bị hại Ban quản lý vịnh H khai cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo và về thời gian, địa điểm và sự việc Ban quản lý vịnh H đã được cơ quan điều tra thu hồi và trả lại số dây điện bị cắt. Đối với các chi phí sửa chữa, đấu nối lại số dây cáp điện bị cắt và thiệt hại của Ban quản lý Vịnh H đã được giải quyết tại bản án ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H xét xử đối với Đặng Xuân T2, hiện tại T2 đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường. Do vậy đại diện bị hại không có yêu cầu gì khác.

Người làm chứng anh Nguyễn Thanh T, Trần Hùng V là cán bộ thuộc Ban quản lý Vịnh H đều khai: khoảng 21 giờ 30 phút ngày 17/7/2021 các anh đi tuần tra kiểm soát khu vực biển gần Hòn Cam (gần Cung cá Heo) thuộc phường Hồng Hải, thành phố H thì phát hiện 01 đò gỗ đang di chuyển từ phía Hòn Cam ra hướng chợ H, trên đò có 02 thanh niên. Thấy xuồng của đội tuần tra thì cả hai nhảy xuống biển trốn, 01 người bị bắt giữ cùng 08 đoạn dây cáp điện bị cắt trộm, còn 01 người trốn thoát.

Người làm chứng Vũ Văn H khai xác nhận ngày 15/7/2021 có 01 nam thanh niên đến thuê anh gắn máy cho 01 chiếc đò gỗ, đến khoảng 13 giờ ngày 17/7/2021 người này đi cùng một thanh niên khác đến lấy đò, anh H không quen biết và cũng không biết họ sử dụng đò vào việc gì.

Lời khai của bị cáo và bị hại còn phù hợp biên bản tiếp nhận nguồn tin tội phạm, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ, bản ảnh hiện trường, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 17/7/2021 tại khu vực đảo Hòn Cam, vịnh H thuộc tổ X khu D phường I, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, Lê Văn T cùng đồng phạm có hành vi lợi dụng sơ hở trộm cắp 08 đoạn dây cáp điện tổng chiều dài 131,5 mét, vỏ màu đen, nhãn hiệu LS-VINA*Cu/XLPE/PVC 2x35+16 sqmm – 0.6/1kV*2011, đã qua sử dụng có giá trị 6.575.000 đ (Sáu triệu năm trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng) của Ban quản lý vịnh H thì bị phát hiện thu giữ vật chứng.

Hành vi nêu trên của Lê Văn T đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo theo bản cáo trạng là đúng quy định của pháp luật.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm …”

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song do thiếu tu dưỡng, lười lao động mà lại muốn có tiền để ăn tiêu, nên đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy cần thiết phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng; sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện ra đầu thú, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo đã 02 lần bị Tòa án kết án mặc dù được xóa án tích nên không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng Hội đồng xét xử cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: đã được giải quyết tại bản án số 272/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H, bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

Đối với hành vi của Đặng Xuân T2 đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xét xử tại bản án số 272/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 về tội “Trộm cắp tài sản” nên không xét đến.

[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T đã phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/7/2022.

Căn cứ điều 331; điều 333; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 229/2022/HS-ST

Số hiệu:229/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về