TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LN, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 16/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án hình sự thụ lý số 17/2024/TLST-HS ngày 11/3/2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/QĐXXST-HS ngày 03/4/2024 đối với:
Bị cáo Lâm Công Th tên gọi khác: không sinh ngày 01/01/1988 tại Bình Phước; Nơi cư trú: tổ 6,ấp 4, xã LT, huyện LN, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: sửa xe; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm T (đã chết) và bà Huỳnh Thị K; Bị cáo chưa có vợ con.
Tiền án: Ngày 10/3/2022 Tòa án nhân dân thị xã Bình Long xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “ Trộm cắp tài sản” chấp hành án xong vào ngày 06/5/2023.
Tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 03/12/2007 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định số 2441/QĐ-UB về việc đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 02/02/2010. Ngày 08/02/2015 Chủ tịch ủy ban nhân dân xã LT ban hành quyết định số 48/QĐ- UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thời hạn 03 tháng, đã chấp hành xong.
Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/12/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Anh Phạm Ngọc H, sinh năm 1995. (Vắng mặt) HKTT: Thôn QH, xã QS,huyện Đắk GLong, tỉnh Đắk Nông.
Nơi cư trú: Tổ 1, ấp Đồi Đá, xã Lộc Khánh, huyện LN, tỉnh Bình Phước.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Phạm Văn Th, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp 4, xã LT, huyện LN, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 20/11/2023, Lâm Công Th trên đường đi ngang qua vườn cao su ấp Đồi Đá, xã Lộc Khánh, thấy bên trong vườn cao su có người nuôi Ong mật đựng trong các thùng nhựa. Đến khoảng 20 giờ ngày 28/11/2023, Th nảy sinh ý định trộm cắp thùng nuôi Ong trên để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Th điều khiển xe mô tô hiệu Fusaco, BKS: 93H3-42xx của Th đi đến nhà Phạm Văn Th rủ T1 cùng đi trộm cắp thùng nuôi Ong thì T1 đồng ý.Th điều khiển xe mô tô chở T1 đi đến khu vực vườn cao su có nuôi Ong mật nói trên, khi đến nơi Th quan sát bên trong vườn có nhiều thùng nhựa dùng để nuôi Ong mật. Lúc này, anh Phạm Ngọc H là người nuôi Ong đã ngủ trong chòi cách khu vực nuôi Ong khoảng 200m. Th kêu T1 đứng ở mép đường coi xe còn Th đi bộ vào chỗ để thùng nhựa nuôi Ong lấy trộm 02 thùng nhựa bên trong có đựng Ong mật bê ra xe mô tô, sau đó Th điều khiển xe chở T1 ngồi sau bê 02 thùng nuôi Ong vừa trộm cắp đi về hướng xã Lộc Hưng tìm người mua để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khi đến khu vực xã LT, huyện LN thì bị lực lượng Công an xã tuần tra, kiểm tra hành chính phát hiện, lập biên bản và đưa về Cơ quan Công an làm việc.Lâm Công Thkhai nhận 02 thùng nhựa nuôi Ong là do bị cáo mới trộm mà có.
Tại kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 12/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện LN xác định: 02 (hai) thùng nuôi Ong mật mà Th và T1 đã trộm cắp có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 1.280.000 đồng (Một triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng).
Bản cáo trạng số 12/CT-VKSLN ngày 06/3/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện LN, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Lâm Công Thvề tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lâm Công Thphạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s,t khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lâm Công Thtừ 06 đến 09 tháng tù. Về vật chứng vụ án:
+ 02 (hai) thùng hình chữ nhật, màu xám dùng để nuôi Ong mật là tài sản hợp pháp của anh Phạm Ngọc H quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện LN đã trả cho anh Hoàng.
+ 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, hiệu Fusaco, biển số: 93H-42xx, số máy: VKVLM1P50FMGF300370, số khung: VLMDCG0B5UM300370 là tài sản của Lâm Công Thmua không làm thủ tục đăng ký. Xác minh chủ sở hữu xe là anh Tạ Văn Thành (sinh năm 1980, trú tại ấp 10, xã Lộc Thiện, huyện LN) đã bán và không có ý kiến gì về tài sản trên, đây là phương tiện Lâm Công Thsử dụng để đi trộm cắp tài sản nên đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét. Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện LN và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:
Vào ngày 28/11/2023, Lâm Công Th điều khiển xe mô tô hiệu Fusaco, BKS: 93H3-42xx đi đến nhà Phạm Văn Th rủ T1 cùng đi trộm cắp thùng nuôi Ong ở trong vườn cao su thuộc ấp Đồi Đá, xã Lộc Khánh T1 đồng ý. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô chở T1 đi đến khu vực vườn cao su có nuôi Ong mật do anh Phạm Ngọc H là người nuôi Ong đã ngủ trong chòi cách khu vực nuôi Ong khoảng 200m, Th đi vào lấy trộm 02 thùng nhựa bên trong có đựng Ong mật đem ra xe nơi T1 đang đứng đợi, sau đó đưa cho T1 ôm 02 thùng nhựa nuôi Ong, Th điều khiển xe đem đi tiêu thụ. Trên đường đi bị lực lượng tuần tra Công an xã Lôc Thái kiểm tra phát hiện và lập biên bản.
Tuy giá trị tài sản bị cáo trộm chỉ 1.280.000đ nhưng vào ngày 10/3/2022 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thị xã Bình Long xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành án xong vào ngày 06/5/2023.Tính đến ngày 28/11/2023 bị cáo chưa được xóa án tích bị cáo tiếp tục trộm tài sản.
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
Như vậy, đối chiếu với điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Viện kiểm sát nhân dân huyện LN truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa công khai, bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo đã từng bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội, cho thấy bị cáo không có khả năng tự sửa chữa sai lầm, tu dưỡng bản thân. Do đó, cần có một hình phạt nghiêm là tù có thời hạn để cải tạo bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội.
[4]Đối với Phạm Văn Th tuy cùng với Th trộm cắp tài sản, nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội T1 không có tiền án, tiền sự Công an huyện LN đã xử phạt hành chính đối với T1.
[5]Xét về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, nhưng đây là tình tiết định tội nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm.
Sau khi phạm tội quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã thu hồi trả cho bị hại, ngoài ra quá trình điều tra, bị cáo đã được cảm hóa và cung cấp nhiều thông tin giúp cho Công an huyện LN phát hiện và khởi tố nhiều vụ án liên quan hành vi tàng trữ và tổ chức xử dụng trái phép chất ma túy. nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự quy định tại điểm s,t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LN đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.
[6] Về vật chứng vụ án:
01 xe mô tô kiểu dáng Dream, hiệu Fusaco, biển số: 93H-42xx, số máy: VKVLM1P50FMGF300370, số khung: VLMDCG0B5UM300370 là phương tiện dùng vào việc phạm tội là tài sản của bị cáo cần tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã thu hồi và trả lại cho bị hại.Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Lâm Công Thphạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, Điều 50, điểm s,t khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lâm Công Th06 (sáu) tháng tù. Thời gian tính tù từ ngày bắt đi thi hành án.
3. Về vật chứng vụ án:
Áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, hiệu Fusaco, biển số: 93H-42xx, số máy: VKVLM1P50FMGF300370, số khung: VLMDCG0B5UM300370.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0007079 ngày 03/3/2024 của Chi cục thi hành án huyện LN)
4. Về án phí:
Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:
Bị cáo Lâm Công Thphải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Đối với bị hại, người có quyền lợi, ngĩa vụ liên quan do vắng mặt tại phiên tòa, thời gian kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2024/HS-ST
Số hiệu: | 22/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về