TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 210/2021/HS-ST NGÀY 15/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai V án hình sự sơ thẩm thụ lý số 189/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 212/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:
Trần Văn D (tên gọi khác: Trần Vũ D), sinh năm 1993; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn S, xã E, huyện C, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Trần Văn T (tên gọi khác: G), sinh năm 1968, đã chết; họ tên mẹ: Vũ Thị H, sinh năm 1966, đã chết; Gia đình có hai chị em, bị cáo là con thứ hai; 02 tiền án: Bản án số 05/2017/HSST ngày 20/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hưng Yên, xử phạt Trần Văn D 01 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/05/2018; Bản án số 02/2019/HSST ngày 25/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hưng Yên, xử phạt Trần Văn D 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/10/2020, chưa được xóa án tích; 01 tiền sự: Ngày 16/02/2017, Trần Văn D bị Công an huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa thi hành; nhân thân: Tháng 5/2010, Trần Văn D bị Công an xã Mễ Sở, huyện T, tỉnh Hưng Yên xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, đã hết thời hiệu; Bản án số 20/2011/HSST ngày 14/04/2011 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hưng Yên, xử phạt Trần Văn D 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/12/2013, đã xóa án tích.
Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 19/07/2021 đến ngày 28/07/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Anh Đinh Quang V, sinh năm 1982; đăng ký hộ khẩu thường trú:
Thôn K, xã S, huyện K, Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ V án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung V án được tóm tắt như sau:
Hồi 01 giờ 30 phút ngày 19/07/2021, tại khu vực cánh đồng thôn K, S, K, Hà Nội, Tổ công tác Công an xã S phát hiện Trần Văn D điều khiển xe máy kiểu dáng Dream chở 18 cây hoa Mộc hương gồm: 04 cây Mộc hương có đường kính gốc 0,8cm, chiều cao 80cm và 14 cây hoa Mộc hương có đường kính gốc 1- 1,2cm, chiều cao 1m có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, Trần Văn D khai nhận vừa thực hiện hành vi trộm cắp 18 cây hoa Mộc hương của anh Đinh Quang V, sinh năm 1982, trú tại: Thôn K, xã S, huyện K, Hà Nội.
Vật chứng thu giữ của Trần Văn D:
- 01 (một) xe máy JIULONG, kiểu dáng Dream, màu nâu, BKS 89E1 - 05883 đã qua sử dụng, số máy VTMJL 150FMGB003632;
- 01 (một) chiếc dầm thân bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 30cm;
- 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bọc nhựa màu đỏ dài 20cm;
- 01 (một) dây cao su màu đen dài 02m, một đầu móc bằng kim loại đã qua sử dụng;
- 04 (bốn) cây Mộc hương có đường kính gốc 0,8cm, chiều cao 80cm và 14 (mười bốn) cây Mộc hương có đường kính gốc 1-1,2cm, cao 1m.
Tại cơ quan điều tra, bị cáo Trần Văn D khai nhận: Do bản thân không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên D nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu sài. Khoảng 23 giờ ngày 18/07/2021, D chuẩn bị 01 chiếc dầm bằng kim loại, 01 chiếc kéo bằng kim loại, 01 dây cao su màu đen để đi trộm cắp cây. D điều khiển xe máy kiểu dáng Dream, màu nâu, đeo BKS 89E1-05883 đi một mình từ nhà ở thôn S, E, C, Hưng Yên đến cánh đồng trồng cây cảnh tại thôn K, S, K, Hà Nội tìm khu vực có sơ hở để trộm cắp. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/7/2021, khi đến nơi, D dừng xe máy tại khu vực nghĩa trang và đi bộ vào ruộng thì phát hiện một ruộng trồng cây hoa Mộc hương được rào xung quanh bằng lưới sắt B40 cao khoảng 1,5m, D trèo qua hàng rào lưới sắt vào bên trong, sử dụng chiếc dầm bằng kim loại để đào và nhổ 18 cây Mộc hương. Sau đó, D ôm toàn bộ số cây hoa Mộc hương ra xe máy, dùng dây chun cao su buộc vào phía sau xe rồi chở đi. Khi D điều khiển xe máy chở 18 cây hoa Mộc hương đi được khoảng 300m trên đường ven bờ sông Hồng thì bị lượng lượng Công an đến kiểm tra, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số 148/KL-HĐĐGTS ngày 26/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: 04 (Bốn) cây Mộc, chiều cao khoảng 80cm, đường kính gốc khoảng 0,8cm có giá trị: 240.000 (Hai trăm bốn mươi nghìn) đồng; 14 (Mười bốn) cây Mộc, chiều cao khoảng 01m, đường kính gốc khoảng 1-1,2cm có giá trị: 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn) đồng. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là: 2.340.000 (Hai triệu ba trăm bốn mươi nghìn) đồng.
Ngày 13/10/2021, Cơ quan điều tra công an huyện K đã quyết định xử lý, đồ vật, tài liệu, trao trả 04 cây Mộc, chiều cao khoảng 80cm, đường kính gốc khoảng 0,8cm và 14 cây Mộc, chiều cao khoảng 01m, đường kính gốc khoảng 1-1,2cm cho anh Đinh Quang V. Anh V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì về trách nhiệm dân sự của bị cáo.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu JIULONG, kiểu dáng Dream, màu nâu, số máy VTMJL 150FMGB003632, đã qua sử dụng là xe không có biển kiểm soát thu giữ của Trần Văn D, D khai mua chiếc xe nói trên từ tháng 07/2021 của một người không quen biết với giá 1.000.000 đồng. Đối với biển kiểm soát 89E1-05883 là do D tự gắn vào xe máy trên để đi lại. Qua xác minh biển kiểm soát 89E1-058.83 là xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, có số máy: JC52E-4086264, số khung: JC5214CY073540; chủ xe là chị Lê Thị Vân Anh, sinh năm 1990; trú tại: Hồng Thái, Đông Kết, C, Hưng Yên. Chị Vân Anh đã bán chiếc xe đeo biển kiểm soát 89E1-058.83 từ lâu. Hiện nay, chị Vân Anh không còn sở hữu chiếc xe và không có yêu cầu đề nghị đối với chiếc xe trên. Theo kết quả tra cứu xe máy vật chứng của Công an huyện K thì chiếc xe máy nói trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.
Đối với 01 chiếc dầm thân bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 30cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bọc nhựa màu đỏ dài 20cm và 01 dây cao su màu đen dài 02m, một đầu móc bằng kim loại đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện trộm cắp tài sản.
Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Trần Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ V án.
Tại bản Cáo trạng số 192/CT-VKSGL ngày 04 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Trần Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 53 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn D từ 25 tháng đến 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/07/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu giải quyết nên không xét.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 01 chiếc dầm thân bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 30cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bọc nhựa màu đỏ dài 20cm; 01 dây cao su màu đen dài 02m, một đầu móc bằng kim loại đã qua sử dụng và 01 Biển kiểm soát 89E1-058.83 thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước chiếc xe máy nhãn hiệu JIULONG, kiểu dáng Dream, màu nâu, số máy VTMJL 150FMGB003632, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo.
Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung V án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ V án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại là anh Đinh Quang V vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh V không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử V án vắng mặt anh V.
[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ V án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:
Hồi 01 giờ 30 phút, ngày 19/7/2021 tại cánh đồng thôn K, S, K, Hà Nội, bị cáo Trần Văn D có hành vi trộm cắp của anh Đinh Quang V, 04 (Bốn) cây Mộc, chiều cao khoảng 80cm, đường kính gốc khoảng 0,8cm có giá trị 240.000 (Hai trăm bốn mươi nghìn) đồng và 14 (Mười bốn) cây Mộc, chiều cao khoảng 01m, đường kính gốc khoảng 1-1,2cm có giá trị: 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn đồng, tổng giá trị tài sản là 2.340.000 (Hai triệu ba trăm bốn mươi nghìn) đồng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cá nhân nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Tại Bản án số 02/2019/HSST ngày 25/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hưng Yên, xử phạt Trần Văn D 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/10/2020, chưa được xóa án tích, bị cáo lại phạm tội mới với lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với dấu hiệu định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:
[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả gây ra nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với động cơ V lợi cá nhân.
[4.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo Trần Văn D đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản vào các năm 2010, 2017 và bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” vào các năm 2011, 2017 và năm 2019, nhưng trong thời gian thử thách lại tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.
[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Do tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” được xác định là dấu hiệu định khung hình phạt nên không được coi là tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.
[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ V án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 chiếc dầm thân bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 30cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bọc nhựa màu đỏ dài 20cm; 01 dây cao su màu đen dài 02m, một đầu móc bằng kim loại đã qua sử dụng và 01 Biển kiểm soát 89E1- 058.83 thu giữ của bị cáo là công cụ, phương tiện phạm tội, có giá trị sử dụng không đáng kể nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu JIULONG, kiểu dáng Dream, màu nâu, số máy VTMJL 150FMGB003632, đã qua sử dụng là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn D (tên gọi khác: Trần Vũ D) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 53 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Văn D 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/07/2021.
2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3.1. Tịch thu, tiêu hủy: 01 chiếc dầm thân bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 30cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bọc nhựa màu đỏ dài 20cm; 01 dây cao su màu đen dài 02m, một đầu móc bằng kim loại đã qua sử dụng và 01 Biển kiểm soát 89E1-058.83;
3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước chiếc xe máy nhãn hiệu JIULONG, kiểu dáng Dream, màu nâu, số máy VTMJL 150FMGB003632, đã qua sử dụng.
(tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 05/11/2021).
Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.
4. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên không xét.
5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường V Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.
Bị cáo Trần Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại là anh Đinh Quang V vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 210/2021/HS-ST
Số hiệu: | 210/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về