TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 201/2023/HS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2023/HSST ngày 15/5/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/QĐXX -ST ngày 16/5/2023, đối với bị cáo:
Trần Việt H- Sinh 1999, tại Hà Nội; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT:
Thôn Đ, xã Đ, huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Họ tên bố: Trần Minh T; Họ tên mẹ: Trần Thị H ( đã chết); Chưa có vợ, con; Tiền án- Tiền sự: Không; Bắt truy nã ngày 01/9/2023.
( Có mặt) Bị hại:
1. Anh Nguyễn Hữu Q- Sinh 1987; Địa chỉ: B0501 Chung cư G, số 378 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội;
( Có đơn xin vắng mặt)
2. Chị Đào Thị Thanh M- Sinh 1973; Địa chỉ: B2009 Chung cư G, số 378 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội; ( Vắng mặt)
3. Anh Vũ Tuấn A- Sinh 1987; Địa chỉ: B0402 Chung cư G, số 378 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội; ( Vắng mặt)
4. Chị Nguyễn Ngọc A- Sinh 1993; Địa chỉ: A0707 Chung cư G, số 378 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội; ( Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có nghề nghiệp ổn định, Trần Việt H nảy sinh ý định đi vào các khu chung cư để trộm cắp xe đạp, bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Từ ngày 25/9/2022 đến ngày 15/10/2022, tại các tầng hầm của Chung cư G, số 378 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. Trần Việt H đã 04 lần thực hiện hành vi trộm cắp xe đạp. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: khoảng 03 giờ 30 phút ngày 25/9/2022, H đi bộ một mình xuống dưới hầm B1 Chung cư G, số 378 phố M, lấy trộm 01 chiếc xe đạp kiểu dáng thể thao nhãn hiệu Giant-ATX860 màu xanh của anh Nguyễn Hữu Q. Sau khi mang xe ra khỏi hầm để xe, H đi lang thang đợi trời sáng để tìm cửa hàng bán xe đạp. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, H đến cửa hàng bán xe đạp của ông Hà Xuân H, tại địa chỉ số 96 đường L, phường M, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Tại đây H đã bán cho ông H chiếc xe đạp với giá 600.000đ. Số tiền này, H đã tiêu sài cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KL-HĐ ĐGTS ngày 21/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự, kết luận:
01 chiếc xe đạp kiểu dáng thể thao nhãn hiệu Giant- ATX860 màu xanh, mua năm 2021 đã qua sử dụng: do tài sản chưa thu giữ được, tài sản không có hóa đơn, chứng từ mua bán kèm theo, nên Hội đồng không có cơ sở để tiến hành định giá. Vì vậy, Hội đồng định giá tài sản từ chối việc định giá tài sản này.
Anh Nguyễn Hữu Q khai chiếc xe đạp này anh mua từ năm 2021 với giá 12.000.000đ( Mười hai triệu đồng). Anh Q không cung cấp được chứng từ mua bán liên quan đến chiếc xe đạp. Anh Q đề nghị xử lý Hoàng theo quy định của pháp luật, anh không yêu cầu H bồi thường xe đạp.
Vụ thứ hai: Ngày 26/9/2022, với thủ đoạn tương tự như trên, tại hầm B1 của Chung cư G, số 378 phố M, H trộm cắp 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu TRINX-TX18PRO, màu đỏ của chị Đào Thị Thanh M. Sau khi trộm cắp được xe đạp, H mang đến bán cho ông Hà Xuân H với giá tiền 750.000đ( Bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Số tiền này, H đã chi tiêu cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KL-HĐ ĐGTS ngày 21/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự, kết luận:
01 chiếc xe đạp kiểu dáng thể thao nhãn hiệu TRINX-TX18PRO, màu đỏ, mua tháng 9/2020, đã qua sử dụng có giá trị 1.500.000đ( Một triệu năm trăm nghìn đồng): Chị Đào Thị Thanh M đề nghị xử lý Hoàng theo quy định của pháp luật, yêu cầu Hoàng bồi thường cho chị số tiền 2.000.000đ( Hai triệu đồng).
Vụ thứ ba: ngày 27/9/2022, tại hầm B1( cạnh phòng nhân viên vệ sinh) của Chung cư G, số 378 phố M, H trộm cắp 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu TRINX- M114 màu đen của anh Vũ Tuấn A. Sau khi trộm cắp được xe đạp, H đem bán cho ông Hà Xuân H với giá 800.000đ( Tám trăm nghìn đồng). Số tiền này, H đã ăn tiêu hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KL-HĐ ĐGTS ngày 21/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự, kết luận:
01 chiếc xe đạp kiểu dáng thể thao nhãn hiệu TRINX-M114, màu đen, mua ngày 28/7/2022, đã qua sử dụng có giá trị 3.000.000đ( Ba triệu đồng):
Anh Tuấn A đề nghị xử lý H theo quy định của pháp luật, yêu cầu H bồi thường cho số tiền 3.000.000đ( Ba triệu đồng).
Vụ thứ tư: Ngày 15/10/2022, H tiếp tục đến Chung cư G, số 378 phố M, đi xuống hầm B2, trộm cắp 01 xe đạp nhãn hiệu Giant Escape ID 2020 màu bạc của chị Nguyễn Ngọc A. Sau khi trộm cắp được xe đạp, H đem bán cho ông Hà Xuân H với giá 800.000đ. Số tiền này, H đã ăn tiêu hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KL-HĐ ĐGTS ngày 21/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự, kết luận:
01 chiếc xe đạp kiểu dáng thể thao nhãn hiệu Giant Escape ID 2020 màu bạc, mua ngày 04/10/2020, đã qua sử dụng có giá trị 5.500.000đ( Năm triệu năm trăm nghìn đồng).
Chị Nguyễn Ngọc A đề nghị xử lý H theo quy định của pháp luật, chị không yêu cầu H bồi thường dân sự.
Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 22/10/2022, khi H tiếp tục đi vào Chung cư G, số 378 phố M mục đích để trộm cắp tài sản. Khi chưa trộm cắp được thì H bị bảo vệ chung cư là anh Vũ Phương H và anh Nguyễn Đình H phát hiện và thông báo cho Công an phương Vĩnh Tuy đến giải quyết.
Tại cơ quan điều tra, H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. H khai, sau các lần trộm cắp xe đạp, H đã bán cho ông H. Khi bán xe đạp, H không nói cho ông H biết xe đạp do trộm cắp mà có. Toàn bộ số tiền bán xe đạp trộm cắp H đã tiêu sài cá nhân hết.
Đối với ông Hà Xuân H: khi đem xe đến bán cho ông, H nói là sinh viên cần tiền muốn bán xe đạp. H không nói xe đạp do trộm cắp mà có. Ông H cũng không nhận dạng được H. Các xe đạp ông mua của H, ông đã bán cho những người không quen biết. Quá trình điều tra xác định ông H không biết các xe đạp H đem đến bán là do trộm cắp mà có. Nên không có căn cứ để xử lý.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ của H: 01 đôi dép dạng xốp màu đen, phân bên trên quai dép có chữ NIKE màu trắng, dép đã qua sử dụng; 01 áo khoác màu đen dạng nỉ dài tay, phần bắp tay có 03 sọc màu trắng, phần trước bụng bên trái có chữ “If Single, Ivench, size”; 01 quần dài dạng nỉ màu đen, có 03 sọc màu trắng ngày phần đùi trái; 01 áo cộc tay dạng áo phông cổ tròn, trước ngực có chữ “ Maio Rleacue”. Các đồ vật trên là trang phục H mặc khi trộm cắp xe đạp( đã được xác định bằng các hình ảnh camera an ninh của chung cư).
Tại Bản cáo trạng số 98/CT-VKS-HS ngày 12/5/2023, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Trần Việt H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra; Căn cứ lời khai của người bị hại, người làm chứng; Căn cứ Kết luận định giá tài sản: xác định bị cáo Trần Việt H phạm tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt Trần Việt H từ 18 đến 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
Về dân sự: bị hại là chị Nguyễn Ngọc A và anh Nguyễn Hữu Q không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.
Buộc bị cáo bồi thường cho anh Vũ Tuấn A 03 triệu đồng. Bồi thường cho chị Đào Thị Thanh M 1.500.000đ.
Buộc bị cáo truy nộp sung công quỹ nhà nước 1.400.000đ( Một triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền bán xe đạp của chị Ngọc A và anh Nguyễn Hữu Q.
Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy dép và quần áo H mặc khi đi trộm cắp.
Bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét hành vi của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ lời khai của bị hại, người làm chứng; Bản kết luận định giá trong tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: trong khoảng thời gian từ ngày 25/9/2022 đến ngày 15/10/2022, tại các tầng hầm của Chung cư G, số 378 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. Trần Việt H đã 04 lần thực hiện hành vi trộm cắp xe đạp của chị Nguyễn Ngọc A, anh Nguyễn Hữu Q, chị Đào Thị Thanh M và anh Vũ Tuấn A. Tổng giá trị tài sản trộm cắp 10.000.000đ( Mười triệu đồng).
Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Trần Việt H là nguy hiểm cho xã hội, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân, gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đối với ông Hà Xuân H: Quá trình điều tra xác định được ông H không biết những chiếc xe đạp mua của Trần Việt H do trộm cắp mà có, nên cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ pháp luật.
Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Căn cứ các Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì có 02 lần tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị trên 02 triêu đồng. Nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Quyết định hình phạt: Xét thấy bị cáo liên tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trong một thời gian ngắn. Sau khi Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng ra bản cáo trạng truy tố Trần Việt H. H đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú gây khó khăn trong quá trình xét xử vụ án. Cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng đã ra lệnh truy nã bị cáo theo đề nghị của Tòa án. Ngày 01/9/2023, bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã. Hành vi bỏ trốn khỏi nơi cư trú của bị cáo thể hiện bị cáo không ăn năn, hối cải, coi thường pháp luật. Nên cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tù giam nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung với loại tội phạm trộm cắp tài sản.
Biện pháp tư pháp: bị hại là chị Nguyễn Ngọc A và anh Nguyễn Hữu Q không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.
Buộc bị cáo bồi thường cho anh Vũ Tuấn A 03 triệu đồng. Bồi thường cho chị Đào Thị Thanh M 1.500.000đ.
Buộc bị cáo truy nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 1.400.000đ( Một triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền bán xe đạp của chị Ngọc A và anh Nguyễn Hữu Q.
Xử lý vật chứng: Quần, áo, dép thu giữ của bị cáo không có giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.
Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải bồi thường cho bị hại, theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I, điểm a tiều mục 1.3 mục 1 phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Bị cáo, Bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I, điểm a tiều mục 1.3 mục 1 phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14;
Xử phạt Trần Việt H 16(Mười sáu ) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 01/9/2023.
Hình phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.
Biện pháp tư pháp: bị hại là chị Nguyễn Ngọc A và anh Nguyễn Hữu Q không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.
Buộc bị cáo bồi thường cho anh Vũ Tuấn A 3.000.000đ( Ba triệu đồng). Bồi thường cho chị Đào Thị Thanh M 1.500.000đ( Một triệu năm trăm nghìn đồng).
Buộc bị cáo truy nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 1.400.000đ( Một triệu bốn trăm nghìn đồng) do bán xe đạp của chị Ngọc A và anh Nguyễn Hữu Q mà có.
Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 đôi dép dạng xốp màu đen, phần bên trên quai dép có chữ NIKE màu trắng, dép đã qua sử dụng; 01 áo khoác màu đen dạng nỉ dài tay, phần bắp tay có 03 sọc màu trắng, phần trước bụng bên trái có chữ “If Single, Ivench, size”; 01 quần dài dạng nỉ màu đen, có 03 sọc màu trắng ngày phần đùi trái; 01 áo cộc tay dạng áo phông cổ tròn, trước ngực có chữ “ Maio Rleacue”.
Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 16/5/2023.
Về án phí: bị cáo Trần Việt H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 201/2023/HS-ST
Số hiệu: | 201/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về