Bản án về tội trộm cắp tài sản số 200/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 200/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 190/2021/TLST- HS ngày 17 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Hứa Văn T, sinh năm 1994; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm NT, xã ĐP, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn 12/12; Con ông: Hữu Văn K, sinh năm 1975; Con bà: Hoàng Thị H, sinh năm 1976; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 109/QĐ-XPHC ngày 14/8/2020 của Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã nộp tiền phạt ngày 14/8/2020; Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 30/9/2021 đến ngày 09/10/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại:

- Anh Phùng Văn K, sinh năm 1991 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 6, xã Nghĩa Hưng, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

- Chị Lương Thị Y, sinh năm 1995 (vắng mặt) Nơi cư trú: Bản Xiềng, xã Đôn Phục, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Công ty TNHH Luxshare do chị Lưu Thị Thanh H, sinh năm 1999- Nhân viên văn phòng Công ty đại diện theo ủy quyền. Trú tại: Thôn T, xã TT, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Hứa Văn T là công nhân của Công ty TNHH Luxshare ở khu công nghiệp Quang Châu, huyện Việt Yên từ ngày 21/7/2021, được Công ty cấp thẻ ra vào công ty có mã thẻ là 91036285. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 13/9/2021, T đến xưởng A1 của Công ty TNHH Luxshare để làm việc, quẹt thẻ cá nhân tại cửa ra vào xưởng làm việc lúc 07 giờ 56 phút. Do T đã nghỉ quá số ngày quy định nên anh Hoàng Văn Tiến- sinh năm 1988, trú tại: thôn Đồng Dao, xã Quý Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang là Tổ trưởng chuyền 2 xưởng A1 của Công ty TNHH Luxshare thông báo cho T biết Công ty đã cho T nghỉ việc, trong ngày hôm nay sẽ khóa thẻ ra vào xưởng. Đến 08 giờ 45 phút cùng ngày, T quẹt thẻ cá nhân ở lối ra vào xưởng A1 để xuống tầng 1 đến khu vực tủ đồ cá nhân để ra về. Khi đi đến khu vực tủ đồ cá nhân của mình có ký hiệu là K- 144, T quan sát xung quanh không có ai vì lúc này đang là giờ làm việc và biết các tủ đồ cá nhân ở đây được làm bằng kim loại có kết cấu không chắc chắn, có thể dùng tay cầm vào ổ khóa, giật mạnh là có thể mở được cánh cửa tủ. Thấy có cơ hội trộm cắp tài sản, T dùng tay phải cầm vào ổ khóa của tủ đổ có ký hiệu K-160 của anh Phùng Văn K- sinh năm 1991, trú tại: thôn 6, xã Nghĩa Hưng, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang giật mạnh khiến cho cánh tủ mở ra, T mở cửa thấy bên trong tủ để đồ có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, loại 32GB màu đen. T dùng tay phải cầm chiếc điện thoại, tắt nguồn và cất giấu vào trong túi quần phía trước bên phải. T tiếp tục đi đến tủ đồ có ký hiệu K-233 của chị Lương Thị Y- sinh năm 1995, trú tại: Bản Xiềng, xã Đôn Phục, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An dùng tay phải cầm vào ổ khóa của tủ đổ giật mạnh làm cánh tủ mở ra, T thấy bên trong tủ đồ có để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, loại 16GB màu xám và bên trong ốp lưng có 57.000 đồng. T dùng tay phải trộm cắp chiếc điện thoại của chị Y đút vào túi quần phía trước bên phải đang mặc của T. Sau đó, T tiếp tục dùng tay giật 09 khoá cửa tủ để đồ gồm: tủ đồ có ký hiệu J- 040; J- 427; J- 620; K- 518; K- 140; K- 152; K- 157; K- 174; K- 229 nhưng T không trộm cắp được tài sản nào.

Đến 09 giờ 02 phút cùng ngày 13/9/2021, sau khi trộm cắp được tài sản, T đi ra khỏi khu vực tủ đồ của xưởng A1, cởi chiếc áo bảo hộ, mũ bảo hộ cất vào bên trong 01 túi nilon màu đỏ, đi đến khu để xe mô tô tiến hành quẹt thẻ cá nhân. T đi ra khỏi Công ty đi đến một cửa hàng điện thoại thuộc thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Tại đây, T gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết họ tên, địa chỉ cụ thể. T đưa cho người đàn ông này chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus và điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus vừa trộm cắp được, nói dối là của vợ, cần phá mật khẩu. Người đàn ông này đã kiểm tra 02 điện thoại và nói phải đến tối với phá xong mật khẩu. Thấy vậy, T đặt vấn đề bán 02 chiếc điện thoại này. Người đàn ông đồng ý mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 với giá 1.600.000 đồng, điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus với giá 500.000 đồng. T tháo 02 chiếc sim bên trong 02 chiếc điện thoại, lấy số tiền 57.000 đồng cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc. Sau khi bán được điện thoại, T về Cao Bằng sinh sống, đã làm rơi 02 chiếc sim không nhớ rõ vị trí, số tiền bán 02 chiếc điện thoại 2.100.000 đồng và số tiền 57.000 đồng, T đã chi tiêu cá nhân hết. Sau khi sự việc xảy ra, ngày 13/9/2021, anh Phùng Văn K và chị Lương Thị Y đã làm đơn trình báo đến Đồn Công an Quang Châu, huyện Việt Yên.

Ngày 13/9/2021, Đồn Công an Quang Châu đã phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ các đoạn video clip của dữ liệu camera an ninh ghi lại toàn bộ diễn biến hành vi thực hiện trộm cắp tài sản của Hứu Văn T được ghi vào đĩa DVD và niêm phong theo quy định.

Công ty TNHH Luxshare do chị Lưu Thị Thanh H- sinh năm 1999 trú tại thôn Tê, xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang là Nhân viên văn phòng- Đại diện theo ủy quyền của Công ty, đã cung cấp cho Cơ quan điều tra Hợp đồng lao động của Hứa Văn T thể hiện có mã thẻ là 91036285 và lịch sử quẹt thẻ ra vào Công ty của Hứa Văn T ngày 13/9/2021, thể hiện thời gian ra vào Công ty từ 07 giờ 56 phút đến 09 giờ 02 phút; xác định các tủ để đồ cá nhân có ký hiệu J- 040; J- 427; J- 620; K- 518; K- 140; K- 152; K- 157; K- 174; K- 229 Công ty chưa giao cho ai quản lý, trong các tủ đồ này không tài sản, không bị hư hỏng về tài sản, công ty cũng không có đề nghị khác và đề nghị xử lý Hứa Văn T theo quy định pháp luật.

Đến ngày 30/9/2021, do nhận thức được hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật nên Hứa Văn T đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên xin đầu thú. Cơ quan điều tra đã cho T đi đến thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để xác định cửa hàng điện thoại mà T đã bán 02 chiếc điện thoại đã trộm cắp được gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen loại 32 GB;

01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus loại 16GB màu xám, có ốp lưng. Kết quả do T lần đầu tiên vào thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên nên T không nhớ được vị trí, không xác định được cửa hàng điện thoại mà T đã đến để bán tài sản trộm cắp ngày 13/9/2021.

Cùng 30/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hứa Văn T ở bản Nà Thoang, xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Kết quả thu giữ tại giường ngủ của T: 01 chiếc quần bò màu xanh, 01 chiếc áo phông màu mậm chính, phía sau in số 11; 01 điện thoại di động mặt trước có chữ Viettet; 01 túi nilon màu đỏ bên trong có 01 mũ bảo hộ, 01 áo bảo hộ màu trắng, có kẻ sọc đen.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Hứa Văn T xác định hiện trường, vị trí tủ để đồ trộm cắp tại xưởng A1 của Công ty TNHH Luxshare. Kết quả bị can T đã chỉ được các tủ đồ mà T dùng tay phải cầm ổ khóa giật mạnh khiến cho cửa tủ bật ra gồm các tủ có ký hiệu: J- 040; J- 427; J- 620; K- 518; K- 140; K- 152; K- 157; K- 174; K- 229; K- 160; K- 233. Trong đó, T đã trộm cắp được tài sản trong 02 tủ có ký hiệu là K- 160 trộm cặp 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen và tủ có ký hiệu K- 233 trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu xám, phía sau ốp lưng có số tiền 57.000 đồng.

Cơ quan điều tra tiến hành cho, anh Hoàng Văn Tiến- sinh năm 1988 trú tại:

thôn Đồng Dao, xã Quý Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang là Tổ trưởng chuyền 2 xưởng A1; chị Lưu Thị Thanh H là Nhân viên văn phòng; anh Ngô Văn Mùi- sinh năm 1991 ở thôn Cầu Trang, xã Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang là Nhân viên an ninh và Hứa Văn T xem lại các video clip mà Cơ quan điều tra đã thu giữ tại hiện trường. Kết quả anh Tiến, chị H, anh Mùi và T đều xác định hình ảnh người thanh niên mặc bên ngoài áo bảo hộ màu trắng, đeo khẩu trang trang y tế màu xanh, đội mũ bảo hộ màu trắng, mặc áo bên trong màu mậm chín, quần bò màu xanh có hành vi trộm cắp tài sản tại khu vực để đồ của xưởng A1 của Công ty TNHH Luxshare là Hứa Văn T. Cơ quan điều tra đã tiến hành chụp lại hình ảnh của Hứa Văn T trong các đoạn video clip đã được anh Tiến, chị H, anh Mùi và T ký xác nhận.

Ngày 01/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên định giá đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, loại 32GB, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, loại 16GB, màu xám; 01 ốp lưng điện thoại và 02 phôi sim điện thoại.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 122/KL-HĐĐGTS ngày 04/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, loại 32GB, màu đen có giá trị 2.700.000 đồng;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, loại 16GB, màu xám có giá trị 1.800.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại có giá trị 25.000 đồng và 02 phôi sim điện thoại có giá trị 40.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 201/CT-VKS ngày 17/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo Hứa Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Hứa Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hứa Văn T từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”.Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng bị cáo được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 30/9/2021 đến ngày 9/10/2021.

Về vật chứng, án phí đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo T thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị hại anh K, chị Y; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH Luxshare do chị H đại diện đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và truy tố đã có lời khai nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292; Điều 305 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo T tại phiên tòa hôm nay phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, vật chứng thu giữ và kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 45 ngày 13/9/2021, tại khu vực để tủ đồ cá nhân của công nhân tại xưởng A1 của Công ty TNHH Luxshrae thuộc khu Công nghiệp Quang Châu, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; Bị cáo Hứa Văn T đã có hành vi trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 4.622.000 đồng, cụ thể: Trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, loại 32G, màu đen có giá trị 2.700.000 đồng, 01 phôi sim điện thoại có giá trị 20.000 đồng của anh Phùng Văn K và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, loại 16GB, màu xám có giá trị 1.800.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại có giá trị 25.000 đồng; 01 phôi sim điện thoại có giá trị 20.000 đồng, số tiền 57.000 đồng của chị Lương Thị Y. Bị cáo T đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản ngày 14/8/2020 nên với hành vi nêu trên của bị cáo T ngày 13/9/2021 đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã có hành vi lén lút để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của bị hại, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, vụ án cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo T đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T. Hội đồng xét xử thấy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định.

[6] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Bị cáo T có nhân thân xấu năm 2020 đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo với xã hội trong một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định phạt bổ sung bằng tiền, tuy nhiên xét thấy bị cáo T không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra anh Phùng Văn K yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền 2.720.000 đồng; chị Lương Thị Y yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền 1.902.000 đồng. Đến nay bị cáo T chưa bồi thường được khoản tiền nào cho anh K, chị Y. Tại phiên tòa bị cáo T nhất trí bồi thường số tiền trên. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo T phải bồi thường số tiền như yêu cầu của anh K, chị Y.

[9] Về vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc quần bò màu xanh; 01 chiếc áo phông màu mậm chín, phía sau in số 11; 01 túi nilon màu đỏ bên trong có 01 mũ bảo hộ; 01 áo bảo hộ màu trắng, có kẻ sọc đen là tài sản của T không liên quan đến hành vi phạm tội, tại phiên tòa bị cáo T không đề nghị xin lại, xét thấy các tài sản này không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động mặt trước có chữ Viettet là tài sản của T không liên quan đến hành vi phạm tội, tại phiên tòa bị cáo xin lại nên Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí: Bị cáo T là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hứa Văn T 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 30/9/2021 đến ngày 09/10/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 589 của Bộ luật dân sự 2015.

Buộc bị cáo Hứa Văn T phải bồi thường cho anh Phùng Văn K số tiền 2.720.000 đồng (Hai triệu bẩy trăm hai mươi nghìn đồng) và chị Lương Thị Y số tiền 1.902.000 đồng (Một triệu chín trăm linh hai nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền được trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

[3] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01(một) chiếc quần bò màu xanh;

+ 01(một) chiếc áo phông màu mậm chín, phía sau in số 11;

+ 01 (một) túi nilon màu đỏ bên trong có 01 (một) mũ bảo hộ, 01(một) áo bảo hộ màu trắng có kẻ sọc đen.

- Trả lại cho bị cáo Hứa Văn T: 01(một) điện thoại di động mặt trước có chữ Viettet.

[5] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

Bị cáo Hứa Văn T được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 200/2021/HS-ST

Số hiệu:200/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về