TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 198/2023/HS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 189/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Lê Hữu N; sinh ngày 23-4-2001 tại thành phố Q, tỉnh B; nơi cư trú: Tổ D, khu phố F, phường T, thành phố Q, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Không rõ, mẹ: Lê Thị Kim L; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh H; sinh năm 1992; nơi cư trú: số nhà B, phố G, phường H, quận H, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Nguyễn Hoàng N1; sinh năm 1991; nơi cư trú: số nhà B, đường T, thành phố Q, tỉnh B; vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Hoàng Gia L1; sinh năm 1997; nơi cư trú: Tổ A, khu phố B, phường T, thành phố Q, tỉnh B; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa tháng 6-2023, Nguyễn Hoàng N1 thuê Lê Hữu N làm công việc dọn vệ sinh hằng ngày tại căn hộ S và một số căn hộ khác trong Tòa nhà F thuộc tổ A, khu phố c, phường N, thành phố Q, do N1 và em trai là Nguyễn Hoàng Gia L1 kinh doanh cho khách du lịch thuê. L1 cung cấp mật khẩu mở cửa các căn hộ cho N để thuận tiện trong việc dọn vệ sinh. Chiều ngày 30-6- 2023, anh Nguyễn Thanh H cùng vợ là chị Nguyễn Vân A đến thành phố Q du lịch, liên hệ với N1 và thuê căn hộ số 901 của Tòa nhà F để ở. Khoảng 19 giờ 15 phút cùng ngày, chị A điện thoại nói N1 mang máy sấy tóc đến căn hộ số 901. Sau đó, chị A cùng anh H đóng cửa phòng đi ra ngoài dạo chơi. Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 30-6-2023, khi N đang ở nhà, N1 điện thoại nói N cầm máy sấy tóc mang đến căn hộ số 901 để khách thuê căn hộ sử dụng. N đi đến Tòa nhà FLC S, lấy máy sấy tóc từ căn hộ số 2326 mang xuống căn hộ số 901 thấy cửa khóa nên bấm chuông nhưng không có ai mở cửa. N bấm mật khẩu mở cửa đi vào bên trong căn hộ, không thấy ai nên N đi ra ngoài đóng cửa lại. Sau đó, N tiếp tục bấm mật khẩu mở cửa đi vào trong căn hộ rồi đi vào phòng ngủ kiểm tra vẫn không thấy ai nên nảy sinh ý định trộm cắp. N đi đến tủ quần áo tại phòng ngủ lục tìm tài sản thì thấy số tiền 6.000.000 đồng của anh H để trên kệ bên trong tủ quần áo nên lấy cất vào trong túi quần. Sau đó, N đi ra ngoài đóng cửa căn hộ, để máy sấy tóc phía trước căn hộ rồi đi về nhà. Đến trưa ngày 01-7-2023, anh H phát hiện bị mất số tiền 6.000.000 đồng nên điện thoại báo với N1. N1 đến trình báo sự việc với Công an phường N.
Quá trình điều tra, N đã tự nguyện giao nộp lại số tiền chiếm đoạt cho Công an phường N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Q đã ra quyết định xử lý trả lại số tiền 6.000.000 đồng cho anh Nguyễn Thanh H. Anh H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu N bồi thường gì thêm.
Bản cáo trạng số 187/CT-VKSQN ngày 02-11-2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhem truy tố bị cáo Lê Hữu N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
Bị cáo Lê Hữu N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như nội dung của Cáo trạng và các chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập; bị cáo đã ăn năn hối cải.
Trong phần luận tội, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Hữu N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Lê Hữu N từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Về dân sự: Bị cáo đã bồi thường, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
Bị cáo Lê Hữu N thống nhất nhu lời luận tội của Kiểm sát viên, không có lời nào bào chữa hay tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là sai trái và xin Toà xử phạt nhẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên về cơ bản bảo đảm tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, đương sự không có ý kiến khiếu nại.
[2] Bị cáo Lê Hữu N thực hiện hành vi bị truy tố khi bị cáo đã trên 18 tuổi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Vào tối ngày 30-6-2023, lợi dụng trong lúc căn hộ số 901 Tòa nhà FLC S không có người, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt số tiền 6.000.000 đồng của anh Nguyễn Thanh H. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng và lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất an toàn, làm giảm niềm tin của khách du lịch khi đến thành phố Q nghỉ dưỡng, ít nhiều ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch của địa phương, nên cần phải xử phạt nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, xét việc bị cáo đã chủ động giao nộp số tiền chiếm đoạt cho cơ quan công an để kịp thời trả lại cho bị hại; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân của bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; cho nên, Hội đồng xét xử có thể áp dụng các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo một mức án nhẹ nhưng vẫn bảo đảm tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự, do bị hại đã nhận lại số tiền bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không tiếp tục xem xét.
[5] Lời đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo, về trách nhiệm dân sự là phù hợp với nhận định nêu trên.
[6] Bị cáo Lê Hữu N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Hữu N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Lê Hữu N 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
2. Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Lê Hữu N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
3. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 198/2023/HS-ST
Số hiệu: | 198/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về