TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 197/2020/HS-PT NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07/5/2020 tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 125/2020/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Trương Thanh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo kháng cáo:
Trương Thanh T; sinh năm 1984 tại thành phố B, tỉnh Đ; Thường trú: xã A, huyện L, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tr và bà X; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền sự: Không;
Tiền án: Ngày 02/6/2017 bị Toà án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo bản án số 43/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2019.
Nhân thân:
- Ngày 01/9/2004 bị Toà án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 62/HSST ngày 01/9/2004, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/4/2004.
- Tại bản án số 127/HSST ngày 25/11/2005 của Toà án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 08/9/2006.
- Tại bản án số 119/HSST ngày 30/7/2007 của Toà án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 02/02/2009.
- Tại bản án số 154/HSST ngày 17/11/2010 của Toà án nhân dân huyện Long Thanh, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 08/5/2013.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/9/2019 (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 03/9/2019 Trương Thanh T gặp Lương Thái S tại chợ đầu mối Nông sản T1 thuộc phường B1, Quận T1, T xin S chai nước suối để sử dụng ma tuý thì S nói cho T sử dụng chung ma tuý. T đồng ý. Cả hai cùng nhau đi đến cuối hẻm A1 đường B2, khu phố B3, phường C, quận T1 sử dụng ma tuý. Sau khi sử dụng ma tuý xong, S phê thuốc nằm ngay tại chỗ, thấy vậy T mới nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô biển số 49C1-083.62 bán lấy tiền tiêu xài, T lấy ví trong túi quần của S ra lấy 01 giấy chứng minh nhân dân, cùng 01 giấy phép lái xe A1 mang tên Lương Thái S và điều khiển xe mô tô biển số 49C1-083.62 của S tẩu thoát. Sau khi tỉnh lại thấy mất xe anh S đến công an phường Tam Bình, quận Thủ Đức trình báo sự việc. Đến ngày 05/9/2019 T điều khiển xe mô tô trên đến ngã tư thuộc phường L1, Thành phố B, tỉnh Đ tìm người bán xe mô tô đã chiếm đoạt của anh Lương Thái S thì bị tổ tuần tra Công an phường Long Bình Tân, Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai nghi vấn nên tiến hành kiểm tra lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức giải quyết theo thẩm quyền. Tại Cơ quan Điều tra Công an quận Thủ Đức, Trương Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 1715/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 12/9/2019 Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Thủ Đức xác định: 01 xe mô tô hiệu Honda Air Blade biển số: 49C1-083.62, có giá trị 38.700.000 đồng.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số: 49C1-083.62 - 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe A1 mang tên Lương Thái S.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trương Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/9/2019.
Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trương Thanh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích nội dung, phân tích tính chất vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội: Căn cứ lời khai của bị cáo, kết hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án xét đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:
Vào ngày 03/9/2019, tại cuối hẻm A1 đường B2 Khu phố B3, phường C, quận T1, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Trương Thanh T có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 49C1-083.62 của anh Lương Thái S để bán lấy tiền tiêu xài. Ngày 05/9/2019, khi T điều khiển xe mô tô trên đến ngã tư thuộc phường L1, thành phố B, tỉnh Đ tìm người bán xe mô tô đã chiếm đoạt thì bị công an phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai bắt giữ. Theo Kết luận định giá tài sản số 1715/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 12/9/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự quận Thủ Đức xác định: 01 xe mô tô hiệu Honda Air Blade biển số 49C1-083.62, có giá trị là 38.700.000 đồng.
[2] Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội.
[3] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Tòa án cấp sơ thẩm cũng xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo mức hình phạt 02 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Mặt khác, trước và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không xuất trình được tình tiết gì mới khác để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên mức hình phạt mà án hình sự sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/9/2019.
2. Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 197/2020/HS-PT
Số hiệu: | 197/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về