Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 19/2024/HS-ST NGÀY 22/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2024/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2024/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Đạt A ; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1995 tại T; Nơi thường trú: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh T; Nơi ở: Không nơi ở cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Hoàng Đạt Cvà bà Mai Thị V; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 45/HSST ngày 21/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Txử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong bản án từ ngày 22/12/2015.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2023 và hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố H. Có mặt.

* Người bị hại: Cháu Phạm Vân N, sinh năm 2013.

Người giám hộ: Ông Phạm Văn T- sinh năm 1990; Trú tại: Tổ 2, phường L, quận H, H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Sáng ngày 26/10/2023, Hoàng Đạt A đi bộ lang thang trên tuyến đường L nhằm tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Đến 10 giờ 50 phút cùng ngày, Đạt A đi bộ đến cổng trường tiểu học L ở số 222, phố N, phường L, quận H, thành phố H thì nhìn thấy bãi gửi xe đạp trên vỉa hè bên ngoài cổng trường. Quan sát thấy không có người trông giữ nên Đạt A đi vào bãi gửi xe lén lút dắt 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu Thống Nhất màu hồng-đen của học sinh gửi tại bãi xe vỉa hè nêu trên. Khi Đạt A vừa dắt xe đạp ra khỏi bãi xe thì bị người bảo vệ bãi xe là anh Nông Văn T(sinh năm 1979, trú tại xã T, huyện Y, tỉnh Y) phát hiện và hô hoán đuổi bắt. Thấy vậy, Đạt A nhảy lên xe đạp bỏ chạy đến trước số nhà 247, phố Nnêu trên thì bị anh Tiến đuổi kịp và phối hợp cùng lực lượng công an bắt giữ quả tang cùng vật chứng, bàn giao Cơ quan điều tra để xác minh làm rõ sự việc.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ: 01 chiếc xe đạp màu hồng-đen, khung xe có in chữ “Thống Nhất”.

Tại Kết luận định giá số 283/KL-HĐĐGTS ngày 07/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận H kết luận: 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu Thống Nhất màu hồng đã qua sử dụng trị giá 3.000.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe đạp vật chứng đã thu giữ nêu trên là tài sản của gia đình cháu Phạm Vân N(sinh năm 2013, trú tại Tổ 2, phường L, quận H, thành phố H), là học sinh Trường Tiểu học L, gửi tại bãi xe trên. Cơ quan điều tra đã Quyết định xử lý vật chứng, trả lại gia đình cháu N chiếc xe đạp đã thu giữ nêu trên. Sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, đại diện gia đình người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác.

Quá trình điều tra, Hoàng Đạt A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị can phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản cáo trạng số 08/CT-VKS-HM ngày 03 tháng 01 năm 2024 Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo từ 08 đến 12 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận H.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp, không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo bị truy tố: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 50 phút ngày 26/10/2023, tại bãi gửi xe vỉa hè trước cổng Trường Tiểu học L ở số 222, phố N, phường L, quận H, thành phố H, lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản, Hoàng Đạt A đã có hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt 01 chiếc xe đạp trị giá 3.000.000 đồng, là tài sản của gia đình cháu Phạm Vân Ngửi giữ tại bãi xe. Tài sản đã thu hồi và trao trả cho người bị hại. Gia đình cháu N đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, do đó cần phải có biện pháp xử lý bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo mới đủ điều kiện giáo dục răn đe bị cáo nói riêng và có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung nhằm góp phần bảo đảm an toàn xã hội.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do đó hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm; vì vậy Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ pháp luật.

Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, có một tiền án về cùng loại tội, mặc dù tiền án đã được xoá tuy nhiên điều đó thể hiện bị cáo đã được cơ quan pháp luật giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân. Để có tiền tiêu sài cá nhân mà không phải mất sức lao động, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó cần phải có mức hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành công dân chấp hành pháp luật. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên HĐXX không xét.

[4] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Bị cáo Hoàng Đạt A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2.Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3.Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng Đạt A phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. sự.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2024/HS-ST

Số hiệu:19/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về