TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 184/2021/HS-ST NGÀY 05/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05/10/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 204/2021/TLST-HS ngày 16.8.2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 173/2021/QĐXXST-HS ngày 22.9.2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nông Trung D (Tên khác: Không), sinh năm 1976; Giới tính: Nam; HKTT: Tổ 20, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội; Nơi ở: Căn hộ 428 HH1C khu đô thị T, xã C, huyện T, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng phái, đoàn thể: Không; Bố đẻ: Nông Hồng H (đã chết); Mẹ đẻ: Lý Thị L, sinh năm 1942; Gia đình có 05 chị em ruột, bị cáo là con thứ năm;Vợ: Đặng Thị B, sinh năm 1976; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2014;
Tiền án, Tiền sự: Không;
Nhân thân: Năm 2017, Công an phường P, quận H, Thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 27/5/2021 đến ngày 04/6/2021; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984; Trú tại: Tổ dân phố P, phường B, quận H, thành phố Hà Nội. Xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 26/5/2021, Nông Trung D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Hon-da Air-blade biển kiểm soát 29M7- 2277 chở bạn là anh Đinh Tiến Th, sinh năm 1977, trú tại thôn T, xã K, huyện S, tỉnh T đến ăn sáng tại quán của chị Nguyễn Thị H sinh năm 1984, ở tổ P, phường B, quận H, thành phố Hà Nội. Khi D gọi đồ ăn để uống rượu, chị H không đồng ý cho ngồi lâu để uống rượu do tình hình dịch bệnh Covid19. Lúc này, D nhìn thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng của chị H đang để ở trên mặt bàn gần quầy bán hàng. Lợi dụng lúc chị H đang bán hàng không để ý, D cầm chiếc điện thoại trên cất vào trong túi quần phía trước bên phải của mình, rồi đi ra khỏi quán. Sau đó, D chở anh Th đến ăn sáng tại một quán khác ở thị trấn C, huyện C, thành phố Hà Nội. Trong lúc ăn, D nói với anh Th việc mình đã trộm cắp chiếc điện thoại di động của chị H, anh Th không nói gì. Sau khi ăn sáng xong, D đưa anh Th đến nơi anh làm việc ở huyện L, tỉnh H, rồi một mình đi về đến cửa hàng điện thoại “Nhật Anh Mobile” ở Số 137, tổ 1, phường P, quận H của anh Lê Mạnh T để rao bán chiếc điện thoại vừa chiếm đoạt được song anh T không mua. Khi D định bỏ đi thì bị lực lượng công an kiểm tra hành chính phát hiện sự việc, bị cáo đã xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ: Thu của Nông Trung D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng, dung lượng 64Gb, số Imei: 35310410110xxxx và 01 xe mô tô nhãn hiệu Hon-da Air-blade biển kiểm soát 29M7- 2xxx, số khung 340xxx, số máy 0386xxx (đều đã qua sử dụng).
Tại Kết luận định giá tài sản số 163/KL-HĐĐG ngày 26/5/2021của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận H, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng, đã qua sử dụng, trị giá 8.600.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 207/CT-VKS-HĐ ngày 13.8.2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo Nông Trung D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Nông Trung D từ 12-15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 6 giờ ngày 26/5/2021, tại quán hàng ăn ở tổ P, phường B, quận H, thành phố Hà Nội, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, Nông Trung D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng, trị giá 8.600.000 đồng.
[3]. Hành vi trên của bị cáo là trái phép, đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo Nông Trung D về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác về tài sản, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Nhân thân bị cáo có 01 tiền sự năm 2017 xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy không bị áp dụng là tình tiết tăng nặng song cũng cần thể hiện ý thức coi thường pháp luật cần xem xét khi quyết định hình phạt. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú; bị cáo là người dân tộc Tày thuộc dân tộc thiểu số nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp chiếc điện thoại di động vật chứng đã thu giữ nêu trên. Sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, chị H không yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác.
[7]. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon-da Air-blade đã thu giữ của Nông Trung D, là tài sản hợp pháp của anh Đặng Đình D sinh năm 1986, trú tại Tổ 20, phường P, quận H, thành phố Hà Nội. Anh Đình D là em vợ của D, cho vợ chồng D mượn chiếc xe máy trên làm phương tiện đi lại, không biết D sử dụng xe máy trên khi thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp, xét là có căn cứ.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1- Tuyên bố bị cáo Nông Trung D phạm tội: Trộm cắp tài sản.
2- Xử phạt bị cáo Nông Trung D 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/5/2021 đến ngày 04/6/2021.
3- Về án phí: Buộc bị cáo Nông Trung D phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 184/2021/HS-ST
Số hiệu: | 184/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về