NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 24/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:
Hoàng Thế A (Tên gọi khác: S), sinh ngày 07 tháng 6 năm 1994 tại huyện B, tỉnh H. Nơi cư trú: Tổ 3, thị trấn Y, huyện Q, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Minh P, sinh năm 1964 và bà Trần Thị H, sinh năm 1970; vợ là Lò Mùi M sinh năm 2002, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2016, còn nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền sự: Không; Tiền án: có 02 tiền án, cụ thể:
+ Năm 2017 bị Toà án nhân dân huyện Quang Bình xử phạt 24 tháng tù về tội cố ý gây thương tích theo Bản án số 09/2017/HSST ngày 14/11/2017;
+ Năm 2020 bị Toà án nhân dân huyện Quang Bình xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 04/2020/HSST ngày 03/06/2020.
- Nhân thân:
+ Năm 2013 bị Toà án nhân dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù giam về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo Bản án số 68/2013/HSST ngày 13/09/2013.
+ Năm 2013 bị Công an huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang xử phạt hành chính hình thức phạt tiền số tiền là 500.000đ về hành vi gây rối trật tự công cộng theo Quyết định xử phạt hành chính số 07/QĐ-XPHC ngày 28/03/2013.
+ Tại Bản án số 04/2020/HSST ngày 03/6/2020; Bản án số 09/2017/HSST ngày 14/11/2017 và Bản án số 68/2013/HSST ngày 13/9/2023 đã thể hiện: Ngày 03/10/2012 Hoàng Thế A bị Công an thị trấn Yên Bình, huyện Quang Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm danh dự nhân phẩm người khác;
ngày 28/12/2019 bị Công an xã Yên Hà, huyện Quang Bình xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt hành chính số 05 ngày 28/12/2019.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/12/2022, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang. "Có mặt".
- Bị hại: Công ty Trách nhiệm hữu hạn C; địa chỉ trụ sở chính: Tổ A, thị trấn V, huyện B, tỉnh H. Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Ông Vũ Văn P, chức danh: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền là ông Lường Quảng L, sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ A, thị trấn Y, huyện Q, tỉnh H. "vắng mặt".
- Người làm chứng:
+ Chị Lò Mùi M, sinh năm 2002; "vắng mặt".
+ Anh Hoàng Anh D, sinh năm 1977, “vắng mặt” + Anh Cao Văn S, sinh năm 1979; “vắng mặt” + Chị Đinh Thị L, sinh năm 1984; “vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ 30 chiều ngày 30/11/2022 tại cây xăng C thuộc tổ A thị trấn V, huyện B, anh Lường Quảng L đến làm việc tại cây xăng, khi vừa đến nhận ca làm việc L được anh Hoàng Anh D nhân viên cùng công ty đưa số tiền 7.700.000đ (bảy triệu bảy trăm nghìn đồng) để đưa cho anh Đinh Văn T kế toán công ty. Số tiền D đưa cho L là tiền dầu anh D bán cho Cao Văn S vào ca làm sáng ngày 30/11/2022. Khi được D nhờ cầm tiền đưa cho T, L đã cất tiền vào túi quần dài màu xám của mình treo trên móc trong góc phải nhà vệ sinh đằng sau phòng làm việc của cây xăng rồi đi ra bán xăng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút L đi vào nhà vệ sinh lấy tiền để đưa cho anh T thì phát hiện trong túi không còn tiền nên đã vào xem camera an ninh của cây xăng thì phát hiện trong khoảng thời gian trên chỉ có người nam thanh niên đã xin xà phòng vào rửa tay đi vào nhà vệ sinh đó nên đã làm đơn trình báo Công an thị trấn Việt Quang để giải quyết vụ việc. Công an thị trấn Việt Quang đã phối hợp nghiệp vụ với Công an huyện Bắc Quang và Công an thị trấn Yên Bình, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang đã tiến hành xác minh, truy xét và xác định được đối tượng Hoàng Thế A, là người thực hiện hành vi trộm cắp tiền tại Công ty TNHH C. Do đó, Công an thị trấn Việt Quang đã chuyển toàn bộ hồ sơ, vật chứng đến Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang để giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, Hoàng Thế A khai nhận: Sáng ngày 30 tháng 11 năm 2022 Hoàng Thế A điều khiển xe mô tô BKS 23D1-069.xx (xe mượn của anh Hoàng Minh T ) đến Bệnh viện đa khoa khu vực huyện Bắc Quang uống Methadone, sau khi uống thuốc xong Hoàng Thế A không về nhà ở Quang Bình mà đi chơi tại thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày Hoàng Thế A điều khiển xe mô tô vào cây xăng C để mua 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) tiền xăng, sau khi mua xong Hoàng Thế A hỏi nhân viên bán xăng là anh Lường Quảng L cho xin ít xà phòng để rửa tay, anh L đã chỉ cho A vào nhà vệ sinh ở phía sau nhà làm việc, A đi qua phòng làm việc vào nhà vệ sinh phía sau, khi rửa tay xong, A muốn lau tay nên nhìn xung quanh thì thấy trong góc bên phải từ cửa nhà vệ sinh trên móc có treo một chiếc quần dài màu xám nên đã lau tay vào quần thì thấy túi quần phồng A nghĩ là có tiền nên đã nảy sinh ý định trộm cắp, A đã dùng tay phải của mình móc vào túi quần (không nhớ túi bên nào) lấy ra được một tệp tiền gồm các mệnh giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng); 200.000đ (hai trăm nghìn đồng); 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) khoảng 5.000.000đ (năm triệu đồng) đến 6.000.000đ (sáu triệu đồng) A không đếm mà cho luôn vào túi quần bên phải của mình rồi đi ra nơi để xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến khu vực xã Tân Bắc, huyện Quang Bình, A dừng xe lại và móc tập tiền trộm được ra đếm thì thấy chỉ có các tờ tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng), 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và đếm được 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng), kiểm tra túi quần A thấy bị thủng nên nghĩ đã bị rơi mất số tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) A điều khiển xe mô tô quay lại để tìm xem có bị rơi trên đường không, A tìm đến khu vực Sơn Thuỷ Quán thuộc địa phận thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang nhưng không thấy nên đã quay xe đi về nhà. Sau khi về đến nhà A đã sử dụng 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để chi tiêu cá nhân còn 2.000.000đ (hai triệu đồng) A đưa cho vợ mình là Lò Mùi M, và nói đây là tiền đi đào cây thuê về. Ngay sau đó, A thấy công an thị trấn Yên Bình và công an thị trấn Việt Quang đến nên đã đi ra nhà vệ sinh nhắn tin cho vợ (Lò Mùi M) với nội dung “Chắc chồng phải đi đây, chồng cất điện thoại ở nhà vệ sinh, nếu họ hỏi thì bảo chồng không có điện thoại”, nhắn tin xong A giấu điện thoại nhãn hiệu Samsung ở cạnh cuộn giấy vệ sinh. Sau đó A được Công an thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang mời lên làm việc và đã thừa nhận hành vi trộm cắp tiền tại cây xăng C vào chiều ngày 30/11/2022.
Ngày 30/11/2022 Lò Mùi M đã tự nguyện giao nộp số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) Hoàng Thế A đã đưa cho M vào chiều ngày 30/11/2022 cho Công an thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
Ngày 05/12/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang ban hành quyết định trưng cầu giám định số 257 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang giám định tiền trong vụ trộm cắp tài sản gồm 03 tờ tiền Việt Nam Đồng có mệnh giá 200.000đ; 14 tờ tiền Việt Nam Đồng có mệnh giá 100.000đ.
Tại bản kết luận số 428/KL-KTHS ngày 08/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang kết luận 03 tờ tiền Việt Nam đồng mệnh giá 200.000đ; 14 tờ tiền Việt Nam đồng có mệnh giá 100.000đ gửi giám định là tiền thật.
Ngày 05/12/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 260 tới Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang giám định kỹ thuật số đối với 01 đĩa DVD-R màu trắng nhãn hiệu SOMEI bên trong lưu trữ 02 tệp video trong đó 01 tệp video có tên JIXM9908 có thời lượng 58 giây ký hiệu A1 và 01 tệp video có tên QCRL8664 có thời lượng 42 giây ký hiệu A2.
Tại bản kết luận giám định số 1513/KL-KTHS ngày 19/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận không phát hiện dấu hiệu cắt ghép chỉnh sửa nội dung trong 02 tệp video ký hiệu A1 và A2 gửi giám định.
Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 7.700.000đ (Bẩy triệu bẩy trăm nghìn đồng).
Với hành vi trên, tại Cáo trạng số 27/CT-VKSBQ ngày 06/03/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Hoàng Thế A về tội “Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giữ nguyên quyết định truy tố Hoàng Thế A về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38, Điều 50; đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 (Ba) năm tù đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, nhất trí với Bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Bắc Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng trong quá trình điều tra. Căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[3] Căn cứ định tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, bị cáo khai nhận: Vào khoảng 14 giờ ngày 30/11/2022, bị cáo Hoàng Thế A đã thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 7.700.000đ (bảy triệu bảy trăm nghìn đồng) trong túi quần dài màu xám trong nhà vệ sinh tại cây xăng của Công ty TNHH C. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra (Bút lục 98-105; 107-108; 110- 112; 114-116; 118), phù hợp với biên bản sự việc (Bút lục 02-03); lời khai bị hại (bút lục 120-126; 128), Bản ảnh vật chứng (Bút lục 66-69); Biên bản và bản ảnh nhận dạng (bút lục 146-149; 151-153); Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ và bản ảnh hiện trường (bút lục 06-12), các kết luận giám định (bút lục 75; 81), lời khai người làm chứng (bút lục 129-132; 134-144) cùng những chứng cứ, tài liệu đã được thu thập, phản ánh trong hồ sơ và được thẩm tra xác minh tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Hoàng Thế A đã phạm Tội trộm cắp tài sản.
[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Hoàng Thế A bị Tòa án nhân dân huyện Quang Bình tỉnh Hà Giang xét xử ngày 03/6/2020 xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, do chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý. Đây là tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm”cho bị cáo theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Thế A nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức về hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do cần tiền tiêu sài nên bị cáo đã cố ý thực hiện.
[6] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: HĐXX thấy rằng bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án tại bản án số 68/2013/HSST đã được xóa, nhiều lần bị xử lý vi phạm hành chính nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
[8] Bị cáo Hoàng Thế A đưa 2.000.000đ (Hai triệu đồng) là tiền bị cáo trộm cắp được cho vợ là chị Lò Mùi M. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định chị Lò Mùi M không biết số tiền A đưa là tiền trộm cắp nên cơ quan Công an không xử lý M trong vụ án này là có cơ sở để HĐXX chấp nhận.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo chiếm đoạt số tiền của bị hại là 7.700.000 (bảy triệu bảy trăm nghìn) đồng. Sau khi bị phát hiện, cơ quan Công an đã thu giữ từ vợ bị cáo được 2.000.000 (hai triệu) đồng và đã trả lại cho bị hại. Bị hại yêu cầu bị cáo phải trả tiếp số tiền còn thiếu là 5.700.000 (năm triệu bảy trăm nghìn) đồng. Xét thấy, bị hại yêu cầu bị cáo trả số tiền còn thiếu là 5.700.000 (năm triệu bảy trăm nghìn) đồng là có cơ sở để HĐXX chấp nhận.
[10] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng là quần, áo cũ đã qua sử dụng, đây là những đồ vật không còn giá trị sử dụng nên HĐXX tịch thu, tiêu hủy.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 357, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật dân sự; Điều 30, Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thế A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Thế A 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 01/12/2022).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Hoàng Thế A phải trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn C; địa chỉ trụ sở chính: Tổ A, thị trấn V, huyện B, tỉnh H. Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Ông Vũ Văn P, chức danh: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền là ông Lường Quảng L , sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ A, thị trấn Y, huyện Q, tỉnh H số tiền 5.700.000đ (Năm triệu bẩy trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) chiếc quần dài; 01 (một) chiếc áo khoác; 01 (một) chiếc mũ lưỡi chai; 01 (một) quần nỉ.
Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày 08/3/2023.
5. Về án phí: Bị cáo Hoàng Thế A phải chịu số tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) và số tiền án phí dân sự có giá ngạch là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2023/HS-ST
Số hiệu: | 17/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về