Bản án về tội trộm cắp tài sản số 163/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 163/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:159/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2023/HSST-QĐ ngày 14 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Huỳnh Thành N, sinh năm 2001 tại T. Nơi cư trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh T; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thành L và bà Nguyễn Thị Kim P; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

N thân:

Ngày 18/8/2020, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng theo Quyết định số 63/QĐ-TA, đã chấp hành xong ngày 10/8/2021.

Tiền sự: 01 lần. Ngày 13/02/2023, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện c, tỉnh T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số 14/QĐ-XP.VPHC, chưa chấp hành.

Bị cáo bị bắt tạm giam 25/8/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh T.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trương Thị Thảo P1 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T.

Người tham gia tố tụng khác:

Người bị hại:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Trú tại: Ấp M, xã S, huyện C, tỉnh T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Cao Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 15/11/2007 (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp:

Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Cao Phước A, sinh năm 1975 (có mặt).

Cùng trú tại: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 21/02/2023 tại ấp M, xã S, huyện C, tỉnh T, bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N có hành vi lén lút trộm cắp 02 con gà trống của anh Nguyễn Minh T.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐG ngày 28/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện C kết luận:

01 con gà trống lông màu đỏ, chân màu xanh, khối lượng 2,4 kg, có giá trị 240.000 đồng.

01 con gà trống lông màu vàng, chân màu xanh, khối lượng 1,8 kg, có giá trị 180.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 420.000đồng.

* Vật chứng và xử lý vật chứng:

01 con gà trống lông màu đỏ đã chết và 01 con gà trống lông màu vàng 1,8 kg là tài sản của anh Nguyễn Minh T nên đã giao trả lại cho anh T.

01 xe mô tô hai bánh biển số 61F9-xxxx.

01 con dao chiều dài 30cm, lưỡi dao dài 20cm, có mũi nhọn, cán dao bằng nhựa màu đen, dài 10cm, có bọc vỏ ngoài màu đen; 01 cái kìm dài 22 cm, cán dài 10cm, phần trên kìm có kim loại màu đen dài 12 cm; 01 cuộn băng keo hình tròn màu xanh; 01 bao màu xanh có chữ đỏ và 01 nạn ná cán bằng cây (gô) dài.

Tại bản cáo trạng số 164/CT-VKSCT ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T đã truy tố bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát công bố.

Trong phần tranh, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T giữ nguyên quyền công tố, luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của người khác, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 420.000đồng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyền công tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N phạm tội trộm cắp tài sản.

+ Về hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N 07 đến 09 tháng tù, tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 25/8/2023.

Bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, biết sai xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N khai nhận ngày 21/02/2023, lợi dụng sự sơ hở của người bị hại tại ấp M, xã S, huyện C, T, Nguyễn Huỳnh Thành N đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Minh T. Hậu quả bị cáo chiếm đoạt tài sản là 02 con gà tổng giá trị 420.000đồng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp cáo trạng truy tố cũng như kết luận luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Xét thấy hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, bị cáo biết rõ tài sản thuộc sở hữu của người khác nhưng đã cố ý lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người bị hại; thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đã đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bị cáo nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo vệ; tài sản mà bị cáo chiếm đoạt theo kết luận định giá của Hội đồng định giá có tổng giá trị là 420.000đồng và thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản mà còn vi phạm. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N đã có đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại về tài sản của người khác; làm ảnh hưởng an ninh, trật tự tại địa phương. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, thiệt hại không lớn nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân không tốt, đã có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không biết sửa chữa, tiếp tục vi phạm pháp luật. Do đó cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức cải tạo, giáo dục bị cáo và để răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

Xét thấy các vật chứng là 01 con dao chiều dài 30cm, lưỡi dao dài 20cm, có mũi nhọn, cán dao bằng nhựa màu đen, dài 10cm, có vỏ bọc ngoài màu đen; 01 cái kiềm dài 22cm, cán dài 10cm, phần trên kiềm có kim loại màu đen dài 12 cm; 01 cuộn băng keo hình tròn màu xanh; 01 cái bao màu xanh có chữ màu đỏ và 01 cái nạn ná là công cụ dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô hai bánh kiểu dáng Dream gắn biển số 61F9-xxxx. Xe do anh Tôn Thế Q đứng tên đăng ký sở hữu. Ông Cao Phước A khai mua xe này khoảng 10 năm tại một tiệm sửa xe gần nhà, khi mua không có giấy tờ xe và không làm giấy mua bán. Do chưa làm việc được với ông Q nên cần giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh T tiếp tục tạm giữ, điều tra xử lý sau.

[6] Đối với Cao Nguyễn Phước T2 sinh ngày 15/11/2007 có cùng Nguyễn Huỳnh Thành N thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản T2 chưa đủ 16 tuổi, chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản và giá trị tài sản trộm cắp chưa đủ định lượng khởi tố nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện C, tỉnh T đã xử lý hành chính là có căn cứ.

[7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Xét đề nghị của người bào chữa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Thành N 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 25/8/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao chiều dài 30cm, lười dao dài 20cm, có mũi nhọn, cán dao bằng nhựa màu đen, dài 10cm, có vỏ bọc ngoài màu đen; 01 cái kiềm dài 22cm, cán dài 10cm, phần trên kiềm có kim loại màu đen dài 12 cm; 01 cuộn băng keo hình tròn màu xanh; 01 cái bao màu xanh có chữ màu đỏ và 01 cái nạn ná.

Vật chứng, tài sản do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/12/2023.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 163/2023/HS-ST

Số hiệu:163/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về