Bản án về tội trộm cắp tài sản số 159/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 159/2022/HS-PT NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2022/TLPT- HS ngày 18/01/2022 đối với bị cáo Ngô Nguyễn Trung A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2021/HSST, ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo khán g cáo :

Ngô Nguyễn Trung A; sinh năm 2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú tại 362/11/10, Tổ 30, Khu phố 3A, phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp không; trình độ học vấn lớp 8/12; dân tộc Kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị F; chưa có vợ, con; tiền sự không.

Nhân thân:

- Ngày 09/01/2020 bị Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án 04/2020/HSST.

- Từ tháng 4/2021 đến tháng 6/2021 đi cai nghiện ma túy bắt buộc theo Nghị định 221/CP tại Cơ sở cai nghiện ma túy Nhị Xuân;

Tạm giam ngày 23/6/2021 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 23/3/2021, đối tượng tên Hậu (chưa rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô không rõ biển số, chở bị cáo Ngô Nguyễn Trung A lưu thông trên đường Đông Bắc, phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến trước nhà số 4, địa chỉ số 212, đường Đông Bắc thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đen, biển số 71B3 - 520.58 của anh Phạm Thanh E dựng trước nhà nhưng không có người trông coi. Hậu dừng xe đứng ngoài cảnh giới, còn A xuống xe, bẻ gãy cổ khóa xe của anh Phong, rồi đẩy xe ra ngoài và ngồi lên xe để cho Hậu đẩy đi đến tiệm sửa xe Toàn Phát, tại số 40B, khu phố 1A, phường C, Quận B thay ổ khóa. Sau đó, bị cáo và Hậu đem chiếc xe trên đến tiệm cầm đố Mạnh Hùng địa chỉ 151 Phạm Văn Chiêu, phường 14, quận E cầm cố được 7.000.000 đồng, Hậu lấy 6.000.000 đồng, chia cho A 1.000.000 đồng.

Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/3/2021, Ngô Nguyễn Trung A đi bộ đến trước số 134 Lê Văn Khương, tổ 10, khu phố 10, phường H, Quận B thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ nâu, biển số 59G2 - 855.53 của chị Huỳnh Mỹ F không có người trông coi. Hiếu lấy khóa điện từ đem theo, mở khóa xe và nổ máy chạy về đến trước địa chỉ số 325A, tổ 25B, khu phố 3, phường G, Quận B thì gặp Tâm Gà và Hậu (Đều chưa rõ lai lịch). A nhờ Hậu đem xe đi bán, Hậu đồng ý và tự thay biển số 59G2-855.53 bằng biển số 59D2-506.71 sau đó Hậu đem đến khu công nghiệp C, tổ 31, khu phố 3, phường G, Quận B bán cho người thanh niên chưa rõ lai lịch với giá 8.000.000 đồng. Hậu lấy 2.000.000 đồng, A 6.000.000 đồng tiêu xài hết.

Theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 12 thì chiếc xe mô tô biển số 71B3 - 520.58 có giá trị là 36.000.000 đồng, chiếc xe mô tô biển số 59G2-855.53, có giá trị là 27.500.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 106/2021/HSST, ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Ngô Nguyễn Trung A 3 (Ba) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/12/2021 bị cáo Ngô Nguyễn Trung A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo khai nhận đã cùng với người có tên Hậu thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, biển số 71B3 - 520.58 của anh Phạm Thanh E tại nhà số 4, địa chỉ số 212, đường Đông Bắc vào ngày 23/3/2021 và một mình bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ nâu, biển số 59G2 - 855.53 của chị Huỳnh Mỹ F vào ngày 30/3/2021, tại trước số 134 Lê Văn Khương, tổ 10, khu phố 10, phường H, Quận B, như bản án sơ thẩm đã xét xử.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau:

- Các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Ngô Nguyễn Trung A tại phiên tòa phúc thẩm đã có đủ căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi trộm cắp chiếc xe máy của anh Phạm Thanh E và chiếc xe máy của chị Huỳnh Mỹ J. Tổng giá trị 2 chiếc xe mà bị cáo trộm cắp có giá trị là 63.500.000 đồng, nên cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là đúng pháp luật.

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngày 09/01/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là tội ít nghiêm trọng và tại thời điểm phạm tội thì bị cáo trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi nên theo Điều 107 của Bộ luật hình sự thì không coi bị cáo là có án tích. Cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự điểm h khoản 2 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là không đúng luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xử phạt bị cáo từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.

Bị cáo không tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn sơ thẩm; phù hợp với các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra thu thập được nên có đủ căn cứ để xác định: Bị cáo là người đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 71B3 - 520.58 của anh Phạm Thanh E vào ngày 23/3/2021 và thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 59G2 - 855.53 của chị Huỳnh Mỹ Fvào ngày 30/3/2021. Tổng giá trị tài sản hai lần trộm cắp có giá trị là 63.500.000 đồng nên cấp sơ thẩm xét xử và kết tội bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hình phạt: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bị cáo trộm cắp chiếc xe của anh Phạm Thanh E vào ngày 23/3/2021, trộm cắp chiếc xe của chị Huỳnh Mỹ F vào ngày 30/3/2021 nên cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng tại điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng luật.

Ngày 09/01/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đây là tội ít nghiêm trọng và lúc bị cáo phạm vào tội này thì bị cáo trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi nên theo điểm b khoản 1 Điều 107 của Bộ luật này thì không được coi là có án tích. Cấp sơ thẩm xác định bị cáo “Tái phạm” và áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm h khoản 2 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là không đúng luật, gây bất lợi cho bị cáo.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Ngô Nguyễn Trung A, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Mức án 3 năm 6 tháng tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là không phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo mặc dù đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Tại phiên tòa phúc thẩm không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới nhưng do không áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 2 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[5] Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo không phải chịu tiền án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Nguyễn Trung A. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 106/2021/HSST, ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Ngô Nguyễn Trung A 3 (Ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2021.

Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Ngô Nguyễn Trung A không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 159/2022/HS-PT

Số hiệu:159/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về