TÒA ÁN NHÂN DẬN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C, Tòa án nhân dân thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2024/TLST-HS ngày 09/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C đối với bị cáo:
Triệu Minh H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 29/9/1981, tại thành phố C, tỉnh C;
Nơi cư trú: Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh C; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Triệu Văn P (sinh năm: 1956) và bà: Hoàng Thị R (sinh năm: 1960); Có vợ: La Thị T (sinh năm: 1988); Con: có 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010);
Tiền án:
- Ngày 28/4/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Ngày 09/9/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội danh là 21 tháng tù.
Tiền sự: Ngày 01/3/2023 bị Công an phường T, thành phố C, tỉnh C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng rượu bia gây mất trật tự công cộng. Mức phạt là 1.500.000 đồng.
Nhân thân:
- Ngày 21/8/2000 bị Công an thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Mức phạt là 100.000 đồng.
- Ngày 11/3/2002 bị Phòng PC 14 Công an tỉnh C lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng;
- Ngày 30/8/2005 bị Công an thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức cảnh cáo;
- Ngày 11/4/2018, Công an thành phố C, tỉnh C xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
- Ngày 27/12/2023 bị Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
Trong vụ án này, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2023 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C. Có mặt.
- Bị hại: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1973;
Địa chỉ: Tổ A, phường T, thành phố C, tỉnh C. Vắng mặt.
- Người làm chứng: Triệu Thị B: Sinh năm: 1991;
Địa chỉ: Làng K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ 15 phút ngày 09/11/2023 Công an thành phố C nhận được đơn trình báo của Nguyễn Thị H1 (sinh năm 1973, trú tại tổ A, phường T, thành phố C) về việc: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09/11/2023, H1 để chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A32, màu xanh trên giường số 28 trong phòng bệnh nhân số 5 Khoa nội tổng hợp của Bệnh viện Đa khoa tỉnh C rồi đi vào phòng vệ sinh, khi quay lại đã phát hiện bị mất chiếc điện thoại.
Quá trình điều tra xác định được: Khoảng 07 giờ ngày 09/11/2023, Triệu Minh H đi bộ từ nhà tại tổ B, phường T, thành phố C đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh C với mục đích lấy trộm tài sản. Khi đến nơi, H lên tầng 03 khoa Nội tổng hợp rồi đi vào phòng bệnh nhân số 05. H quan sát thấy giường bệnh số 28 không có người, trên gối có để 01 chiếc điện thoại di động. H ngồi vào giường số 28 ngồi và quan sát trong phòng, thấy không có ai chú ý nên H đã dùng tay trái cầm chiếc điện thoại trên gối cất vào túi đằng trước bên trái chiếc quần H đang mặc rồi đi ra khỏi phòng bệnh. Sau đó H đi đến phòng vệ sinh bệnh nhân chung ở cuối khoa Nội tổng hợp giấu chiếc điện thoại vừa lấy trộm ở dưới đáy chiếc xô đựng nước màu xanh trong nhà vệ sinh. Khi H bước từ phòng vệ sinh ra thì bị bảo vệ phát hiện và đưa về trụ sở Công an thành phố C để làm việc.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A32 màu xanh có số IMEI1: 355870668253872, số IMEI2: 357848358253871, điện thoại cũ đã qua sử dụng.
Ngày 10/11/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C có yêu cầu định giá tài sản số 323/YC-ĐCSHS. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 82/KL-HĐĐGTS ngày 14/11/2023 kết luận: Giá trị 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32, màu xanh là 2.000.000đ (hai triệu đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 13/CT-VKSTP ngày 08/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C truy tố bị cáo Triệu Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Triệu Minh H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhất trí với Kết luận định giá tài sản số 82/KL-HĐĐGTS ngày 14/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố C.
Bị hại Nguyễn Thị H1 vắng mặt tại phiên tòa đã có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn Nguyễn Thị H1 xác nhận đã được trả lại chiếc điện thoại bị trộm và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, về hình phạt: Đề nghị xét xử theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Triệu Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Triệu Minh H 15 đến 18 tháng tù. Áp dụng Điều 56 để tổng hợp hình phạt 15 tháng tù của bản án số 173/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra việc xem xét giải quyết do bị hại không yêu cầu.
Về xử lý vật chứng: Không có.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và mong hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:
Do bản thân nghiện rượu và cần tiền tiêu sài cá nhân nên khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09/11/2023, Triệu Minh H đã có hành vi lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32, màu xanh của Nguyễn Thị H1 để trên giường trong phòng bệnh nhân số 05 khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh C. Trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 2.000.000đ (hai triệu đồng).
Hành vi của bị cáo Triệu Minh H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo là người có nhân thân rất xấu. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về hình phạt chính:
Trong vụ án này, giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp chỉ ở mức khởi điểm của khung hình phạt. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, nhiều lần vi phạm pháp luật, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, phạt tù... nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân. Ngày 03/02/2023 bị cáo vừa chấp hành xong bản án số 119/2021/HS-ST ngày 09/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Trộm cắp tài sản nhưng đến ngày 30/8/2023 bị cáo tiếp tục phạm tội và bị bắt về hành vi Trộm cắp tài sản khi chưa được xóa án tích. Vì lý do sức khỏe, đến ngày 08/9/2023 bị cáo được cho tại ngoại nhưng không dừng ở đó, chỉ đến ngày 09/11/2023 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản cùng với phương thức đã dùng trong vụ án trước đó. Qua đó thể hiện thái độ coi thường pháp luật và sự cố ý thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo, thấy rằng: Cần xử phạt bị cáo hình phạt thực sự nghiêm khắc mới đủ để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa cho những người có ý định phạm tội.
[6] Về hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...” . Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng:
Xét thấy việc trả lại tang vật của vụ án không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, ngày 16/11/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra trả 01 (một) điện thoại di động cảm ứng (đã qua sử dụng) nhãn hiệu SAMSUNG, màu xanh cho Nguyễn Thị HI là chủ sở hữu. Ngoài ra, không còn vật chứng nào khác.
[8] Về các vấn đề khác:
Các ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C tại phiên tòa là đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Khoản 1 Điều 56; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Triệu Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Triệu Minh H 18 (mười tám) tháng tù.
Tổng hợp với hình phạt 15 (mười lăm) tháng tù của bản án số 173/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C. Buộc bị cáo Triệu Minh H phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 33 (ba mươi ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/11/2023, được trừ đi thời gian tạm giừ (trong vụ án trước) từ ngày 30/8/2023 đến ngày 08/9/2023.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về xử lý vật chứng: Không có.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Xử buộc bị cáo Triệu Minh H phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2024/HS-ST
Số hiệu: | 15/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về