Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T – TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 14/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. PHÚ VĂN MINH CH, sinh năm: 2002 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; tôn giáo: Bà ni; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phú Văn T và bà Bá Thị D; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 27/4/2020 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt T sản”, chấp hành án tại Trại giam Sông Cái đến ngày 24/3/2021 chấp hành xong; bị cáo bắt, tạm giam từ ngày 08/12/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

2. BÁO VĂN BẢO NG, sinh năm: 2003 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; tôn giáo: Bà ni; quốc tịch: Việt Nam; con ông Báo T và bà Thiên Thị Nh; chưa có vợ, con; tiền sự: Ngày 21/3/2021 có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” bị Chủ tịch UBND xã P quyết định áp dụng Bện pháp giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 11/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận quyết định đưa vào Trường giáo dưỡng thời hạn 12 tháng, đến ngày 16/7/2021 chấp hành xong; bị cáo bắt, tạm giam từ ngày 24/01/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

3. THẬP VĂN L, sinh năm: 2003 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; tôn giáo: Bà ni; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thập Đ và bà Thị Thanh T; chưa có vợ, con; tiền sự: Ngày 14/9/2021 bị Công an xã P, huyện T xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã nộp phạt; tiền án: Không; bị cáo bắt, tạm giam từ ngày 08/12/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

4. ĐÀNG NĂNG PH, sinh ngày 01 tháng 4 năm 2004 (Đến ngày phạm tội thì bị cáo 17 tuổi 04 tháng 14 ngày) tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; tôn giáo: Bà ni; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàng Năng L và bà Não Thị C; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 11/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận quyết định đưa vào Trường giáo dưỡng thời hạn 12 tháng, đến ngày 16/6/2021 chấp hành xong; bị cáo bắt, tạm giam từ ngày 08/12/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Xuân L, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Thuận bào chữa cho bị cáo Đàng Năng Ph.

- Bị hại:

1. Anh Kiều Minh H, sinh năm: 1972; nơi cư trú: Thôn V 1, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)

2. Anh Bá Trung B, sinh năm: 2000; nơi cư trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Trương Đình Nh, sinh năm: 1974; nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Thanh Ph, sinh năm: 1989; nơi cư trú: Khu phố 14, thị trấn D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)

3. Anh Lê Văn H, sinh năm: 1997; nơi cư trú: Thôn H, xã N, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh Báo T, sinh năm: 1988; Nơi cư trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn Bến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 09/11/2021, Báo Văn Bảo Ng rủ Thập Văn L đi trộm cắp tài sản, L đồng ý. Cả hai đi đến khu vực phía sau nhà vệ sinh của anh Bá Trung B sinh năm 2000 ở thôn V 3, xã P, L cõng Ng trên vai để Ng chui vào ô cửa thông gió nhà vệ sinh đột nhập vào trong nhà, sau khi vào trong nhà, Ng mở cửa chính dễ dàng tẩu thoát, sau đó lục tìm lấy được tài sản gồm: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu ACER Swift SF315-52-52Z7 màu vàng – xám, 01 (một) điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI NOTE 8 PRO màu đen, 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO Y53S màu xanh – đen và 01 (một) bộ tai nghe không dây hiệu I12 gồm 02 tai nghe màu trắng và 01 bộ sạc màu trắng. Lấy được tài sản Ng cùng L đem về nhà Ng cất giấu rồi cả hai về nhà L ngủ.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, ông Báo T sinh năm 1956 trú thôn V 3, xã P là cha của Ng phát hiện 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu ACER Swift SF315-52-52Z7 màu vàng – xám nghi là tài sản trộm cắp nên giao nộp cho Công an xã P. Ngày 10/11/2021 L đem điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI NOTE 8 PRO màu đen bán cho cửa hàng điện thoại di động Đình Nh ở Khu phố 1, thị trấn D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận cho ông Trương Đình Nh sinh năm 1974 với giá 2.000.000 đồng; ngày 12/11/2021 L đem điện thoại di động hiệu VIVO Y53S màu xanh – đen bán cho Nguyễn Thanh Ph sinh năm 1989 ở Khu phố 14, thị trấn D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận với giá 2.500.000 đồng; riêng 01 (một) bộ tai nghe không dây hiệu I12 gồm 02 tai nghe màu trắng và 01 bộ sạc màu trắng, Ng giao nộp cho Cơ quan điều tra. Số tiền bán điện thoại Ng và L đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐG ngày 22/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện T, kết luận: Giá trị thiệt hại của tài sản gồm: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu ACER Swift SF315-52-52Z7 màu vàng – xám, số SNID: 84500275472 có giá trị 6.667.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO Y53S màu xanh – đen có giá trị 3.167.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI NOTE 8 PRO màu đen có giá trị 2.133.000 đồng; 01 (một) bộ tai nghe không dây hiệu I12 gồm 02 tai nghe màu trắng và 01 bộ sạc màu trắng có giá trị 67.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại là 12.034.000 đồng (Mười hai triệu, không trăm ba mươi bốn ngàn đồng).

Ngoài lần trộm cắp tài sản trên, quá trình điều tra xác định, chiều tối ngày 15/8/2021, Phú Văn Minh Ch điều khiển xe mô tô nhãn hiệu BOSS Biển số 85E1– X đến rủ Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L và Đàng Năng Ph đi trộm cắp tài sản thì được cả nhóm đồng ý. Ch điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 85E1 – X chở L, Ph điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 85E1 – X chở Ng cùng đi đến khu vực rẫy của ông Kiều Minh H sinh năm 1972 ở thôn V 1, xã P. Tại đây Ch và L dùng kìm cắt, tháo lưới thép B40 loại lưới cao 1,5 mét ra khỏi các trụ bằng gỗ, Ng và Ph cuộn lưới đã cắt thành 05 cuộn (01 cuộn trọng lượng 54kg; 01 cuộn 49kg; 01 cuộn 24kg; 01 cuộn 29kg; 01 cuộn 29,4kg) rồi cả nhóm cùng nhau vận chuyển số lưới thép trên về khu vực đất trống gần Trung tâm Hành chính huyện T thuộc thôn V 3, xã P cất giấu, riêng cuộn lưới thép B40 trọng lượng 29kg, Ch chở về cất giấu tại nhà mình. Sáng ngày 16/8/2021, Ch điều khiển xe mô tô chở 02 cuộn lưới nặng 54 kg và 49 kg trộm được đi bán cho Lê Văn H sinh năm 1997 trú thôn H, xã N tại cửa hàng mua bán phế liệu “Thanh Vui” ở thôn Th, xã N được 1.030.000 đồng (Một triệu không trăm ba mươi ngàn đồng), chia nhau tiêu xài hết. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày 16/8/2021, Ch kêu em trai tên Phú Văn Huỳnh Đ sinh ngày 31/7/2004 phụ Ch chở đồ, Đ không biết nên đi cùng Ch chở 02 cuộn lưới B40, đang đi trên đường thì bị Công an xã P kiểm tra phát hiện, tạm giữ tang vật.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐG ngày 10/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện T, kết luận: Giá trị thiệt hại của tài sản gồm: 01 (một) cuộn lưới B40 khối lượng 54kg, chiều dài 21,1 mét, chiều cao 1,5 mét; 01 (một) cuộn lưới B40 khối lượng 49kg, dài 19,15 mét, chiều cao 1,5 mét; 01 (một) cuộn lưới thép B40 khối lượng 24kg dài 9,37 mét, cao 1,5 mét; 01 (một) cuộn lưới thép B40 khối lượng 29kg dài 11,34 mét, cao 1,5 mét và 01 (một) cuộn lưới thép B40 khối lượng 29,4kg dài 11,47 mét, cao 1,5 mét. Tổng khối lượng 185,4kg x 15.333 đồng/kg = 2.842.738 đồng (Hai triệu, tám trăm bốn mươi hai ngàn, bảy trăm ba mươi tám đồng).

Tại bản Cáo trạng số: 09/CT-VKSTN ngày 15 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Phú Văn Minh Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Báo Văn Bảo Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Thập Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đàng Năng Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.

Người bào chữa cho bị cáo Đàng Năng Ph trình bày lời bào chữa: Đồng ý với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Do bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên và lúc phạm dưới 18 tuổi được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 91 của Bộ luật hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo Đàng Năng Ph mức án cải tạo không giam giữ.

Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau:

Ngày 15/8/2021 tại khu vực rẫy anh Kiều Minh H ở thôn V 1, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp tài sản của anh H tổng cộng gồm 185,4 kg lưới B40, có giá trị là 2.842.738đ (Hai triệu tám trăm bốn mươi hai nghìn bảy trăm ba mươi tám đồng) theo Bản kết luận định giá T sản số: 20/KL-HĐĐG ngày 10 tháng 9 năm 2021 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện T.

Ngày 09/11/2021 tại nhà anh Bá Trung B ở thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Các bị cáo Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp tài sản của anh B, gồm: 01 (Một) máy tính xách tay nhãn hiệu ACER Swift SF315-52-52Z7 màu vàng – xám, số SNID: 84500275472, có giá trị là 6.667.000 đồng; 01 (Một) điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI NOTE 8 PRO màu đen, có giá trị là 2.133.000 đồng; 01 (Một) điện thoại di động hiệu VIVO Y53S màu xanh – đen, có giá trị là 3.167.000 đồng; 01 (Một) bộ tai nghe không dây hiệu I12 gồm 02 tai nghe màu trắng và 01 (Một) bộ sạc màu trắng, có giá trị là 67.000 đồng. Tổng giá trị T sản mà các bị cáo Ng, L chiếm đoạt là 12.034.000đ (Mười hai triệu không trăm ba mươi bốn nghìn đồng) theo Bản kết luận định giá tài sản số: 26/KL-HĐĐG ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện T.

Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, xét vai trò của từng bị cáo được đánh giá như sau: Các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng là người khởi xướng, rủ rê đồng bọn và cùng với các bị cáo Thập Văn L, Đàng Năng Ph trực tiếp trộm cắp tài sản của bị hại.

Xét thấy hành vi nêu trên của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương nên Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo; riêng bị cáo Đàng Năng Ph phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tại thời điểm phạm tội bị cáo Đàng Năng Ph là người chưa thành niên được quy định tại Điều 91 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo Phú Văn Minh Ch xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội (Bị cáo Đàng Năng Ph đến ngày phạm tội là 17 tuổi 04 tháng 14 ngày) được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Đàng Năng Ph không có tình tiết tăng nặng.

Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân xấu.

Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo có điều kiện cải tạo, rèn luyện bản thân mình thành người tốt sau này là phù hợp với quy định tại Điều 38; Điều 101 của Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại anh Bá Trung B và anh Kiều Minh H đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Lê Văn H yêu cầu các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph trả lại số tiền 1.030.000 đồng; anh Trương Đình Nh yêu cầu các bị cáo Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L trả lại số tiền 2.000.000 đồng; anh Nguyễn Thanh Ph yêu cầu các bị cáo Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L trả lại số tiền 2.500.000 đồng. Đây là số tiền mà các anh H, Nh, Ph mua tài sản do các bị cáo trộm cắp đem bán. Các bị cáo cũng đồng ý hoàn trả lại số tiền trên cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là phù hợp với quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 587 của Bộ luật dân sự.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho chủ sở hữu chị Não Thị C 01 (Một) xe mô tô Biển kiểm soát 85E1-098.34; trả lại cho chủ sở hữu chị Sư Thị Nô E 01 (Một) và xe mô tô Biển kiểm soát 85EA-X; trả lại cho anh Trương Khắc Thành L 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu BOSS Biển kiểm soát 85E1-X và 01 (Một) kìm cắt hiệu MEINFA. Chị C, chị E và anh L không biết việc các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Đàng Năng Ph dùng xe và kìm cắt của mình để thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra Công an huyện T đã tiến hành trả lại tài sản trên cho chủ sở hữu là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phú Văn Minh Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phú Văn Minh Ch 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 08/12/2021.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Báo Văn Bảo Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Báo Văn Bảo Ng 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 24/01/2022.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Thập Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Thập Văn L 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 08/12/2021.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đàng Năng Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đàng Năng Ph 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 08/12/2021.

- Căn cứ Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 587 của Bộ luật dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Lê Văn H, anh Trương Đình Nh, anh Nguyễn Thanh Ph và các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph.

Buộc các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph liên đới hoàn trả cho anh Lê Văn H số tiền 1.030.000đ (Một triệu không trăm ba mươi nghìn đồng). Chia phần cho mỗi bị cáo Ch, Ng, L, Ph là 257.500đ (Hai trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm đồng).

Buộc các bị cáo Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L liên đới hoàn trả cho anh Trương Đình Nh số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Chia phần cho mỗi bị cáo Ng, L là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Buộc các bị cáo Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L liên đới hoàn trả cho anh Nguyễn Thanh Ph số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Chia phần cho mỗi bị cáo Ng, L là 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Phú Văn Minh Ch, Báo Văn Bảo Ng, Thập Văn L, Đàng Năng Ph mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 13/4/2022). Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về