TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 149/2023/HS-ST NGÀY 29/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 5 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm T lý số: 131/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2023 tại hai điểm cầu gồm: Điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh; Điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 176/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Lê Đăng B - Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 29 tháng 5 năm 1982 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký thường trú: Khối 8, phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Lê Đăng H – sinh năm 1940 và bà: Võ Thị H – sinh năm 1950 ; Vợ, con: chưa có; Tiền án: - Ngày 21/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 05/4/2022; Nhân thân: - Ngày 18/01/2006 bị Công an phường Trường Thi, thành phố Vinh xử phạt hành chính 100.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; - Ngày 25/10/2006, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 20/5/2008; - Ngày 01/6/2009, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 04/5/2011; - Ngày 21/02/2019, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 15 tháng, chấp hành xong ngày 18/3/2020; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2023 đến nay có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Hoàng Khánh T - Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 25 tháng 8 năm 1984 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký thường trú: Xóm Mẫu Đơn, xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Khánh T – đã chết và bà: Phạm Thị H – sinh năm 1952 ; Vợ, con: chưa có; Tiền án:
- Ngày 09/8/2021, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 24/7/2022; Nhân thân:
- Ngày 15/3/2001 bị Công an phường Lê Mao, thành phố Vinh xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”;
- Ngày 14/10/2003, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 năm tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong năm 2008; - Ngày 01/6/2009, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 04/5/2011;
- Ngày 26/8/2013, Công an thành phố Vinh xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2023 đến nay có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Thanh – sinh năm 1988 – vắng mặt Địa chỉ: Xóm 5, xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Lê Anh T – sinh năm 1988 Địa chỉ: Khối 11, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – vắng mặt
+ Anh Lê Thanh T – sinh năm 1990 – vắng mặt Địa chỉ: Khối Tân Lâm, phường D, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
+ Anh Lê Đăng C – sinh năm 1976 – vắng mặt Địa chỉ: Khối 8, phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 05 giờ ngày 10/02/2023, Lê Đăng B rủ Hoàng Khánh T đi trộm cắp tài sản, cả hai đi xe mô tô nhãn hiệu Star 110 biển kiểm soát 37 H7- 1020 đến khu vực bệnh viện đa khoa thành phố Vinh thuộc khối 10, phường H Sơn, thành phố Vinh với mục xem ai sơ hở để lấy trộm tài sản. Khi đến nơi B và T để xe mô tô ở trạm xe buýt trước cổng Bệnh viện rồi cùng nhau đi vào khu vực khoa hồi sức tích cực. T ngồi ngoài ghế đá để cảnh giới, còn B mở cửa đi vào trong khu vực khoa hồi sức tích cực, phát hiện thấy chị Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1988 trú tại xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên đang nằm ngủ trên ghế xếp, trên đầu 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu xám. B đi lại lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi đi ra khu vực hành lang Bệnh viện, lúc này T ngồi chờ phía ngoài thấy B đi ra nên đã đi theo hỏi “Gì mà nhanh thế?". B trả lời “Nhanh lên tau trộm được cái điện thoại đây rồi”. Sau khi nghe B nói thế thì cả B và T đi ra cổng Bệnh viện lấy xe mô tô đi xuống khu vực đường Phan Đăng Lưu, trên đường B tháo Sim vứt đi rồi dấu điện thoại vào bụi cây Công viên Nguyễn Tất Thành. Sau đó cả B và T đi đến trước cửa hàng điện thoại số 1 đường Bạch Liêu ngồi chờ, đến 8 giờ cùng ngày khi của hàng mở cửa, B quay lại Công viên lấy điện thoại đem đến cửa hàng. Sau khi kiểm tra anh Lê Thanh T đã mua chiếc điện thoại do anh Lê Anh T (Chủ của hàng) giới thiệu với giá 4.500.000 đồng (Trà cho T 500.000 đồng). Số tiền bán điện thoại B và T chia nhau tiêu xài. Đến ngày 21/02/2023, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật Lê Đăng B và Hoàng Khánh T đến Công an phường H Sơn đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.
Tại Bản kết luận giám định số 23/KL-ĐGTS ngày 28/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản - UBND thành phố Vinh kết luận: 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu xám đã qua sử dụng dung lượng 128 GB tại thời điểm ngày 10/02/2023 có giá trị 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng).
Cáo trạng số 156/CT - VKS - TPV ngày 24/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố Lê Đăng B, Hoàng Khánh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1, 2 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; Điều 38 BLHS xử phạt các bị cáo Lê Đăng B, Hoàng Khánh T mỗi bị cáo từ từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Về dân sự: Quá trình điều tra, người bị hại đã nhận lại tài sản, người liên quan không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.
Bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng khác của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người liên quan và các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy, có cơ sở để kết luận: Khoảng 05 giờ 15 phút ngày 10/02/2023, tại Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh thuộc khối 10, phường H Sơn, thành phố Vinh, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, Lê Đăng B, Hoàng Khánh T đã lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax của chị Nguyễn Thị Trang trị giá 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng) đem bán với giá 4.500.000 đồng để tiêu xài. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2.2] Xét tính chất vụ án: Tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại được pháp luật bảo vệ, vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, cả hai bị cáo đều là người đã bị xét xử nhiều lần, hiện có 01 tiền án chưa được xóa án tích. Vì vậy cần xử phạt nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
[2.3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo hiện có 01 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Việc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và chỉ cần xử mức hình phạt như đề nghị của đại diện VKS là đủ nghiêm và thể hiện sự khoan H của pháp luật.
[2.4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính còn có hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét bị cáo hiện lao động tự do, công việc không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3] Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Thanh T hiện không yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 4.500.000 đồng nên miễn xét, anh Trà có thể khởi kiện các bị cáo một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Star 110 biển kiểm soát 37 H7- 1020 mà Lê Đăng B sử dụng đi trộm cắp tài sản mà Cơ quan Công an thu giữ. Qua điều tra thuộc sở hữu của anh Lê Đăng C, sinh năm 1978 trú tại khối 8, phường Đ, thành phố Vinh không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã trả lại cho anh Công là đúng quy định pháp luật. Anh Lê Thanh T, Lê Anh T là những người mua điện thoại của các bị cáo nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phạm tội. Đối với số tiền 500.000 đồng thu lợi của anh Lê Anh T phát sinh từ hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu xung quỹ nhà nước.
[4] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Đăng B, Hoàng Khánh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, 2 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Lê Đăng B 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (21/02/2023).
Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, 2 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Hoàng Khánh T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (21/02/2023).
Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ từ anh Lê Anh T (Vật chứng có tại kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An theo phiếu nhập kho số TK 9911 ngày 14/4/2023).
Về án phí: Căn cứ điều 136 BLTTHS; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Buộc bị cáo Lê Đăng B, Hoàng Khánh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí HSST.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 149/2023/HS-ST
Số hiệu: | 149/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về