TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 139/2020/HSST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 154/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Xuân G, Sinh ngày 02 tháng 10 năm 2001 tại tỉnh Nghệ An. HKTT: Xóm T, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An.
Nơi cư trú: Sống lang thang.
Dân tộc: Thổ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Không; Học vấn: 4/12 Con ông: Nguyễn Xuân C, sinh năm 1979 (còn sống) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1982 (còn sống).
Bị cáo có 02 anh chị em, bị cáo là con đầu trong gia đình Bị cáo chưa có vợ, con Tiền sự: Không Tiền án: Ngày 12 tháng 10 năm 2018, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 26 tháng 3 năm 2019, chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo chưa đóng tiền án phí.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27 tháng 8 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện N, tỉnh Đồng Nai.
- Người bị hại: Anh Đoàn Văn D, sinh năm 1983; nơi cư trú: 34/8/9 khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
(bị cáo có mặt, bị hại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 31 tháng 7 năm 2020, tại nhà của anh Đoàn Văn D thuộc khu phố Ph, thị trấn H, huyện N. Nguyễn Xuân G lén lút trộm cắp 01 chiếc xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen. Đến ngày 27 tháng 8 năm 2020, G đến Công an thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai đầu thú.
Vật chứng thu giữ:
Số tiền 40.000 đồng của Nguyễn Xuân G giao nộp khắc phục hậu quả.
Đối với chiếc xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen, G bán cho 01 người đàn ông (không rõ nhân thân) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không thu hồi được.
Theo Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện N thì 01 chiếc xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen trị giá 2.790.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Đoàn Văn D yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt số tiền là 2.790.000 đồng.
Ngày 05 tháng 9 năm 2020, Cơ quan điều tra Công an huyện N đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Xuân G để điều tra.
Quá trình điều tra Nguyễn Xuân G khai nhận: G không có nghề nghiệp, sống lang thang. Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 31 tháng 7 năm 2020, G đi bộ đến khu phố Ph, thị trấn H, huyện N tìm người có sơ hở để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Khi G đi đến nhà của anh Đoàn Văn D. G thấy cửa cổng không khóa bên trong có 01 chiếc xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen để trước sân nhà không có người trông coi nên G lẻn vào trộm cắp chiếc xe đạp trên. Rồi đạp xe đi đến khu vực ngã ba Ph thuộc khu phố M, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai bán chiếc xe đạp vừa trộm cắp được cho 01 người đàn ông (không rõ nhân thân) với giá 200.000 đồng. Đến ngày 27 tháng 8 năm 2020, G đến Công an thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai đầu thú. Công an thị trấn H, huyện N lập hồ sơ và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N xử lý theo thẩm quyền Tại bản cáo trạng số 147/CT-VKS-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Nguyễn Xuân G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Tòa án tuyên tiếp tục tạm giữ số tiền 40.000 đồng của Nguyễn Xuân G để đảm bảo thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Tòa án tuyên buộc bị cáo phải bồi số tiền 2.790.000 đồng là giá trị tài sản bị chiếm đoạt cho anh Đoàn Văn D.
Đối với người đàn ông có hành vi mua 01 xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen; do chưa rõ nhân thân nên Cơ quan CSĐT Công an huyện N tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân G từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
- Bị cáo Nguyễn Xuân G không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu và bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; Hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[1.2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng:
Bị hại có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên đã có lời khai trong hồ sơ nên căn cứ Điều 292 xét xử vắng mặt bị hại.
[2] Về trách nhiệm hình sự:
Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước tòa, cho thấy bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:
Vào ngày 31 tháng 7 năm 2020, Nguyễn Xuân G đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen, trị giá 2.790.000 đồng của anh Đoàn Văn D tại khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Sau đó, G bán xe đạp trên cho 01 người đàn ông (không rõ nhân thân) với giá 200.000 đồng. Đến ngày 27 tháng 8 năm 2020, G đến Công an thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai đầu thú.
Như vậy, đã có đủ căn cứ để xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân G đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét về tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương, bị cáo có nhân thân xấu, không kiếm việc làm về nuôi sống bản thân mà trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết định khung hình phạt là “Tái phạm” nên cần phải xử phạt một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo và tính chất của vụ án nhằm giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo G có nhân thân xấu và đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo là người dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn thấp, nhận thức về pháp luật còn hạn chế và bị cáo đầu thú là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
Tiếp tục tạm giữ số tiền 40.000 đồng của Nguyễn Xuân G giao nộp để đảm bảo thi hành án.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại anh Đoàn Văn D số tiền là 2.790.000 đồng là giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt. Do đó cần buộc bị cáo Nguyễn Xuân G phải bồi thường cho bị hại Đoàn Văn D số tiền là 2.790.000 đồng.
Đối với người đàn ông có hành vi mua 01 xe đạp, kiểu leo núi, hiệu Galaxy, màu đỏ - đen; do chưa rõ nhân thân nên Cơ quan CSĐT Công an huyện N tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.
[6] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng: Điều 38; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân G 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 8 năm 2020.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Nguyễn Xuân G phải bồi thường cho bị hại Đoàn Văn D số tiền là 2.790.000 đồng.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thi hành về phần tiền bồi thường thì phải chịu tiền lãi đối với số tiền chậm T toán tương ứng với thời gian chậm T toán. Mức lãi suất do các bên tự thỏa thuận nhưng không vượt quá 20%/năm. Nếu các bên không thỏa thuận được thì mức lãi suất chậm trả áp dụng là 20%/năm.
- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Tiếp tục tạm giữ số tiền 40.000 đồng của Nguyễn Xuân G để đảm bảo thi hành án theo giấy nộp tiền ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Ngân hàng Thương mại cổ phần C.
- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân G phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thầm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 139/2020/HSST
Số hiệu: | 139/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về