Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 135/2020/HS-ST NGÀY 25/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Minh T (Tên gọi khác: T K), sinh năm: 1999 tại Đ;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Chổ ở hiện nay: 578 khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 06/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Thành Đ, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1970.

Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 02 chị em; chưa có vợ, con. Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 30/5/2019, bị Tòa án nhân dân huyện L xử phạt 08 tháng tù giam, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/12/2019 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 127 ngày 01/12/2019, của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B (Bị cáo có mặt).

- Bị hại: Ông Đào Hải P, sinh năm: 1978 - (Vắng mặt) Địa chỉ: 293/1, khu phố 1, phường B, thành phố B, Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Minh T là người có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/10/2019, không có nghề nghiệp và nơi ở ổn định, để có tiền tiêu xài và chơi game bắn cá, T nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Khoảng 01 giờ ngày 24/11/2019, T đi bộ từ tiệm game bắn cá N thuộc khu phố 3, phường An Bình, thành phố B đến dãy phòng trọ thuộc tổ 10, khu phố 5, phường An Bình, thành phố B, T đi kiểm tra cửa các phòng trọ để tìm ai sơ hở thì trộm cắp tài sản, khi T đi đến phòng trọ số 25 do anh Đào Hải P thuê trọ thì phát hiện cửa phòng không khóa chỉ khép hờ, anh P đang ngủ trong phòng nên T lẻn vào phòng trộm cắp được 01 (một) cái bóp da có một số giấy tờ cá nhân, số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (không rõ model). Trộm cắp được số tài sản trên, T mang về tiệm game bắn cá N bán 02 (hai) chiếc điện thoại di động trên cho một người tên Hoàng (không rõ họ, địa chỉ) được 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng), T đã tiêu xài hết số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) trong số tiền bán 02 (hai) chiếc điện thoại và số tiền trộm cắp được, số còn lại T để trong túi rồi đi ngủ, sau đó T phát hiện đã bị mất. Đến ngày 01/12/2019, T bị Cơ quan điều tra bắt giữ, khởi tố để điều tra xử lý.

Vật chứng của vụ án: là 01 USB ghi lại hình ảnh T trộm cắp tài sản được lưu tại hồ sơ vụ án.

Đối với 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (không rõ model) T đã bán cho đối tượng tên Hoàng (không rõ họ, địa chỉ) và 01 (một) cái bóp da có các giấy tờ cá nhân cùng số tiền trộm cắp T khai đã làm mất nên không thu hồi được.

Tại Văn bản số 22/TCKH-HĐĐG ngày 22/01/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: “Tài sản yêu cầu định giá là: 02 (hai) cái điện thoại di động hiệu Samsung. Tài sản chưa thu hồi được, trên cơ sở lời khai bị hại, không xác định được cấu hình, chủng loại, model, không đủ cơ sở định giá, Hội đồng thống nhất không định giá”.

Tại Văn bản số 50/TCKH-HĐĐG ngày 11/02/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: “Tài sản yêu cầu định giá là: 01 (một) cái bóp da. Tài sản chưa thu hồi được, trên cơ sở lời khai bị hại, không rõ kích thước, chủng loại không đủ cơ sở định giá, Hội đồng thống nhất không định giá”.

Trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Thùy L (là mẹ của Phan Minh T ) đã bồi thường cho anh Đào Hải P số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng), đối với các tài sản khác thì anh P không yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số 112/CT-VKSBH ngày 19 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phan Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Phan Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Phan Minh T từ 14 tháng đến 18 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 01 giờ ngày 24/11/2019, tại phòng trọ số 25 nhà trọ thuộc tổ 10, khu phố 5, phường A, thành phố B, Phan Minh T đã có hành vi trộm cắp 01 (một) cái bóp da có một số giấy tờ cá nhân, số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (không rõ model) của anh Đào Hải P thì bị bắt giữ để điều tra, xử lý. [3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản ghi hình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, 01 tiền án, bị cáo không lấy các lần bị xử phạt trước làm bài học răn đe, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội, bị cáo lười lao động mà bất chấp phạm tội, xem thường pháp luật. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có điều kiện giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm vào tình tiết tái phạm quy định tại khoản điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về phần dân sự: Bị hại anh Đào Hải P đã nhận được số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) do gia đình bị cáo bồi thường, đối với các tài sản khác bị trộm cắp thì anh P không yêu cầu bồi thường và xin bãi nại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[8] Về vấn đề khác:

Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 800.000 đồng do bị cáo thu lợi bất chính từ việc phạm tội.

Đối với người tên Hoàng (không rõ họ, địa chỉ) đã mua 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (không rõ model) do T trộm cắp mà có, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh và xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Phan Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phan Minh T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2019.

2. Căn cứ các Điều 46 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) sung ngân sách nhà nước.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2020/HS-ST

Số hiệu:135/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về