Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2024/HS-ST ngày 08 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Bình A, tên gọi khác: Không, sinh năm 2000; tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Khu phố N, phường N, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; Nơi tạm trú: Ấp N, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Phan Ngọc P; vợ: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07-11-2023, chuyển tạm giam ngày 16-11-2023 tại nhà tạm giữ Công an Huyện D. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Vũ Thị Hồng L, sinh năm 1976; nơi cư trú: Ấp N, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Ngọc P; nơi tạm trú: Ấp N, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp nên Trần Bình A nảy sinh ý định điều khiển xe môtô đi trên các tuyến đường tìm nhà của người dân sơ hở để lấy trộm tài sản đem bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 23 giờ ngày 30/10/2023, A điều khiển xe môtô biển số 70F1- X đến cửa hàng bán dụng cụ câu cá Hoài Phương của chị Vũ Thị Hồng L tại ấp N, xã C, huyện D, thấy khóa cửa, không người trông giữ. A dùng cục đá đập ổ khoá bên ngoài, đột nhập vào lấy trộm 32 loại dụng cụ câu cá gồm: 09 cuộn cước hiệu Fuloro Carbon, 22 cuộn cước hiệu Nylon, 02 cuộn cước hiệu Bazan, 01 cuộn cước hiệu Xbraid, 05 cuộn cước hiệu 5C, 02 cuộn cước hiệu Trilen, 02 cuộn cước hiệu Rhino, 02 cuộn cước hiệu Okamoto, 02 bộ trắng khoen câu máy, 01 bộ vàng khoen câu máy, 10 bộ lười câu hiệu Simago, 03 hộp lưỡi câu hiệu Mako, 17 bộ lưỡi câu không ngạnh, 10 bộ hạt chặn phao, 06 bộ lưởi câu hiệu Xfish, 04 gói cám cốt, 03 gói trùng chỉ sấy khô, 04 gói cám rô phi tím, 03 gói gan gà gan ngỗng, 04 gói bột gan ngỗng, 05 gói cám rô phi, 03 gói mồi câu hiệu Phúc Lộc T, 03 gói cám chép, 03 bịch bông tuyết, 02 gói cám cối K52, 02 chai tơ nhện, 01 chai tinh chất khoai lan, 01 thao trộn mồi, 02 cần câu hiệu Balava 03m, 01 cần câu hiệu Balava 3,2m, 01 gói dù đầu cần và 01 chai chép khủng, rồi A đem về nhà cất giấu. Sau khi bị mất trộm, chị L trình báo Công an xã C. Sau đó, A đăng lên Facebook để bán dụng cụ câu cá thì bị Công an xã C bắt giữ cùng vật chứng.

Vật chứng vụ án:

- 09 cuộn cước hiệu Fuloro Carbon, 22 cuộn cước hiệu Nylon, 02 cuộn cước hiệu Bazan, 01 cuộn cước hiệu Xbraid, 05 cuộn cước hiệu 5C, 02 cuộn cước hiệu Trilen, 02 cuộn cước hiệu Rhino, 02 cuộn cước hiệu Okamoto, 02 bộ trắng khoen câu máy, 01 bộ vàng khoen câu máy, 10 bộ lười câu hiệu Simago, 03 hộp lưỡi câu hiệu Mako, 17 bộ lưỡi câu không ngạnh, 10 bộ hạt chặn phao, 06 bộ lưởi câu hiệu Xfish, 04 gói cám cốt, 03 gói trùng chỉ sấy khô, 04 gói cám rô phi tím, 03 gói gan gà gan ngỗng, 04 gói bột gan ngỗng, 05 gói cám rô phi, 03 gói mồi câu hiệu Phúc Lộc T, 03 gói cám chép, 03 bịch bông tuyết, 02 gói cám cối K52, 02 chai tơ nhện, 01 chai tinh chất khoai lan, 01 thao trộn mồi, 02 cần câu hiệu Balava 03m, 01 cần câu hiệu Balava 3,2m, 01 gói dù đầu cần và 01 chai chép khủng.

- 01 xe môtô biển số 70F1-X; 01 cục đá xanh; 01 ổ khoá bằng kim loại màu đen, đã bị hư hỏng.

Kết luận định giá tài sản số 31 ngày 07/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân Huyện D kết luận: 32 loại dụng cụ câu cá có tổng giá trị 12.847.000 đồng.

Kết luận giám định số 1911/KL-KTHS ngày 14-12-2023 của Phòng K Công an Tỉnh T kết luận số khung và số máy bị đục xoá không xác định được số nguyên thuỷ.

Về trách nhiệm dân sự: Chị L đã nhận lại tài sản bị mất trộm nên không yêu cầu bồi thường.

Tại cáo trạng số 09/CT-VKSDMC ngày 15 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu đã truy tố bị cáo Trần Bình A về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị:

Căn cứ điểm khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Bình A từ 6 đến 9 tháng tù.

Xử lý vật chứng, bị cáo chịu án phí theo quy định.

Ý kiến của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo cho rằng tất cả lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo tự nguyện, không bị ép buộc, không bị ép cung hay bức cung. Kết luận điều tra cũng như Bản cáo trạng truy tố bị cáo ra trước tòa hoàn toàn phù hợp với hành vi của bị cáo đã thực hiện. Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tụng tố tụng: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa bị cáo Trần Bình A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Khoảng 23 giờ ngày 30/10/2023, bị cáo A điều khiển xe môtô biển số 70F1-X đến cửa hàng bán dụng cụ câu cá Hoài Phương của chị Vũ Thị Hồng L tại ấp N, xã C, thấy khóa cửa, không người trông giữ. A dùng cục đá đập ổ khoá bên ngoài vào lấy trộm 32 loại dụng cụ câu cá gồm: 09 cuộn cước hiệu Fuloro Carbon, 22 cuộn cước hiệu Nylon, 02 cuộn cước hiệu Bazan, 01 cuộn cước hiệu Xbraid, 05 cuộn cước hiệu 5C, 02 cuộn cước hiệu Trilen, 02 cuộn cước hiệu Rhino, 02 cuộn cước hiệu Okamoto, 02 bộ trắng khoen câu máy, 01 bộ vàng khoen câu máy, 10 bộ lười câu hiệu Simago, 03 hộp lưỡi câu hiệu Mako, 17 bộ lưỡi câu không ngạnh, 10 bộ hạt chặn phao, 06 bộ lưởi câu hiệu Xfish, 04 gói cám cốt, 03 gói trùng chỉ sấy khô, 04 gói cám rô phi tím, 03 gói gan gà gan ngỗng, 04 gói bột gan ngỗng, 05 gói cám rô phi, 03 gói mồi câu hiệu Phúc Lộc T, 03 gói cám chép, 03 bịch bông tuyết, 02 gói cám cối K52, 02 chai tơ nhện, 01 chai tinh chất khoai lan, 01 thao trộn mồi, 02 cần câu hiệu Balava 03m, 01 cần câu hiệu Balava 3,2m, 01 gói dù đầu cần và 01 chai chép khủng, rồi A đem về nhà cất giấu. Do đó, có đủ căn cứ xác định các bị cáo Trần Bình A đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Bình A “Trộm cắp tài sản” theo điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu trật tự trị an địa phương, xâm phạm đến nếp sống văn minh của xã hội. Do đó cần xét xử các bị cáo một mức án thật nghiêm để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, nên cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử lý vật chứng:

- Tài sản bị cáo trộm đã trả lại cho bị hại xong.

- Chiếc xe môtô biển số 70F1-X của bà Phan Ngọc P là mẹ của bị cáo, khi bị cáo lấy xe đi bà P không biết bị cáo sử dụng để làm gì, bà P có yêu cầu được nhận lại xe nên trả lại xe môtô biển số 70F1-X cho bà P.

- Tịch thu và tiêu huỷ 01 cục đá xanh; 01 ổ khoá bằng kim loại màu đen, đã bị hư hỏng không sử dụng được.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự Tuyên bố bị cáo Trần Bình A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Trần Bình A 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07-11-2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại đã nhận tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm.

3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử lý vật chứng:

- Đã trả tài sản bị mất trộm cho bị hại xong.

- Trả chiếc xe môtô biển số 70F1-X cho bà Phan Ngọc P.

- Tịch thu và tiêu huỷ 01 cục đá xanh; 01 ổ khoá bằng kim loại màu đen, đã bị hư hỏng không sử dụng được.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Bình A phải chịu 200.000 đồng.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về