Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 202/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Vi Văn H (tên gọi khác: Vi Văn T), sinh ngày 06 tháng 9 năm 1977 tại tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vi Văn S (đã chết) và bà Nghiêm Thị S (đã chết); Gia đình bị cáo có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; Bị cáo có vợ là Lưu Thị D (sinh năm 1982) và có 02 con (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2016); Tiền sự: Ngày 24/9/2019, bị Công an xã L, huyện N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 17/9/2020 tại ấp 3, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai, bị cáo chưa nộp phạt; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 25/6/2020 (Bị cáo có mặt).

- Bị hại: Công ty Trách nhiệm hữu hạn đầu tư xây dựng Cường V Địa chỉ: 168/1 Bùi Thị X, Phường 3, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Hữu C – Chức vụ: Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Tiến H, sinh năm 1992 Địa chỉ: 637/61/21/10 Q, Phường 11, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ ngày 25/6/2020, Vi Văn H (tên gọi khác: Vi Văn T) điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, đen biển kiểm soát: 60C2- 660.00, có gắn thêm một thùng xe cải tiến bằng sắt (do H tự chế) đi từ phòng trọ của H ở ấp 5, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai đến Khu công nghiệp N tìm người có sơ hở để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến công trình xây dựng của Công ty TNHH đầu tư và xây dựng Cường V, đang thi công công trình cho công ty D ở đường số D3 thuộc khu công nghiệp dệt may huyện N, H nhìn thấy có nhiều sắt đang để bên trong hàng rào không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp số sắt trên. H dừng xe dựng ở ngoài đường rồi đi bộ đến trộm cắp được 03 cây sắt phi 18, mỗi cây dài 2m; 03 cây sắt chống tăng hình tròn loại 3m/1 cây; 14 cây xà gồ 5V loại 3m/1; 06 cây xà gồ 5V loại 6m/1; 03 cây xà gồ 5V loại 4m/1, khi H đang mang số tài sản trên để lên thùng xe cải tiến chở về thì bị anh Hoàng Ngọc Q (sinh năm 1992) và anh Trương Quang H (sinh năm 1985), cùng ngụ tại ấp X, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tang vật thu giữ gồm có:

- 03 cây sắt phi 18, mỗi cây dài 2m - 03 cây sắt chống tăng hình tròn loại 3m/1 cây - 14 cây xà gồ 5V loại 3m/1 cây - 06 cây xà gồ 5V loại 6m/1 cây - 03 cây xà gồ 5V loại 4m/1 - 01 xe mô tô biển số 60C2-660.00 - 01 thùng xe cải tiến (loại tự chế) Tại Kết luận định giá tài sản số: 166/KLĐG-HĐĐG ngày 29/06/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nhơn Trạch kết luận:

- 03 cây sắt phi 18, mỗi cây dài 2m, giá trị sử dụng còn 99,5%, trị giá 173.130 đồng - 03 cây sắt chống tăng hình tròn loại 3m/1 cây, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 460.800 đồng - 14 cây xà gồ 5V loại 3m/1, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 1.612.800 đồng - 06 cây xà gồ 5V loại 6m/1, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 1.382.400 đồng - 03 cây xà gồ 5V loại 4m/1, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 460.800 đồng Tổng giá trị tài sản định giá là 4.089.930 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số: 03 /CT-VKS - NT ngày 24/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai truy tố Vi Văn H (tên gọi khác:

Vi Văn T) về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vi Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; xử phạt Vi Văn H từ 14 tháng đến 16 tháng tù;

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Tòa tuyên: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 thùng xe cải tiến (loại tự chế) của Vi Văn H là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

- Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Vi Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vi Văn H không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch.

Lời nói sau cùng của bị cáo Vi Văn H tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Nhơn Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về việc vắng mặt của bị hại:

Đại diện hợp pháp của phía bị hại là ông Mai Tiến H vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Ông H đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vi Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 02 giờ ngày 25/6/2020, Vi Văn H (tên gọi khác: Vi Văn T) đã điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, đen biển kiểm soát: 60C2- 660.00, có gắn thêm một thùng xe cải tiến bằng sắt (do H tự chế) thực hiện hành vi trộm cắp: 03 cây sắt phi 18, mỗi cây dài 2m, trị giá 173.130 đồng; 03 cây sắt chống tăng hình tròn loại 3m/1 cây, trị giá 460.800 đồng; 14 cây xà gồ 5V loại 3m/1, trị giá 1.612.800 đồng; 06 cây xà gồ 5V loại 6m/1, trị giá 1.382.400 đồng;

03 cây xà gồ 5V loại 4m/1, trị giá 460.800 đồng, tổng giá trị tài sản định giá là 4.089.930 đồng, của Công ty TNHH đầu tư và xây dựng Cường V thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Theo Kết luận định giá tài sản số: 166/KLĐG-HĐĐG ngày 29/06/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nhơn Trạch kết luận:

- 03 cây sắt phi 18, mỗi cây dài 2m, giá trị sử dụng còn 99,5%, trị giá 173.130 đồng - 03 cây sắt chống tăng hình tròn loại 3m/1 cây, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 460.800 đồng - 14 cây xà gồ 5V loại 3m/1, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 1.612.800 đồng - 06 cây xà gồ 5V loại 6m/1, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 1.382.400 đồng - 03 cây xà gồ 5V loại 4m/1, giá trị sử dụng còn 96%, trị giá 460.800 đồng Tổng giá trị tài sản định giá là 4.089.930 đồng.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Vi Văn H (tên gọi khác: Vi Văn T) phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo:

[3.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự: Ngày 24/9/2019, bị Công an xã L, huyện N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 17/9/2020 tại ấp 3, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai; bị cáo chưa nộp phạt.

[3.2] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vi Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thiệt hại không lớn, tài sản bị cáo trộm cắp đã trả lại cho chủ sở hữu, tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) thùng xe loại tự chế của Vi Văn H là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

[8]. Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, đen biển số 60C2-660.00 thuộc sở hữu hợp pháp của bà Đặng Thị T (sinh năm 1965), ngụ tại ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Long An; bà T không biết H mượn dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch đã giao trả lại cho bà T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

[10] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Vi Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vi Văn H (tên gọi khác: Vi Văn T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vi Văn H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 25/6/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) thùng xe loại tự chế của Vi Văn H phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/12/2020)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vi Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án/

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về