TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 07/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ tên: Nguyễn Thị Yến L, tên gọi khác: Nguyễn Thị Út N; sinh năm 1989; Tại CM; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Không; Chỗ ở: Khóm B, phường T, thành phố C, tỉnh M; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: không biết chữ (biết ký và viết họ tên); Con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị Đ (Nguyễn Thị G - chết); sống chung như vợ chồng với Nguyễn Hồng H; con 04 người. Tiền án: không, tiền sự: 01 lần tại quyết định số 03/2018/QĐ-TA ngày 13/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Cà Mau. Đến ngày 07/8/2019, Tòa án nhân dân huyện U Minh có quyết định giảm thời hạn chấp hành quyết định xử lý hành chính đối với Nguyễn Thị Yến L.
Nhân thân:
Tại bản án số 42/2010/HSST của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 06 tháng tù về tội”Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Đến ngày 15/6/2010, tại bản án số 69/2010/HSST, bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 bộ luật Hình sự 1999, tổng hợp hình phạt với bản án 42/2010/HSST là 01 năm 06 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/8/2011.
Tại bản án số 73/2012/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 02 năm tù về tội”Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 bộ luật hình sự năm 1999. Đã chấp hành xong hình phạt tù. Được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù vào ngày 05/7/2012 do nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Tại bản án số 215/2013/HSST, bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 bộ luật Hình sự 1999, tổng hợp hình phạt còn lại với bản án 73/2012/HSST là 03 năm 09 tháng 19 ngày tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/12/2016, chấp hành xong án phí ngày 10/4/2014.
Nguyễn Thị Yến L bị áp dụng biện pháp tạm giữ (trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang) ngày 16/10/2019. Đến ngày 22/10/2019 ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay (bị cáo có mặt).
Trong thời gian cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra, ngày 16/12/2019, bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khóm 3, phường 9, thành phố Cà Mau. Đến ngày 19/12/2019, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam cho đến nay.
-Bị hại: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1955.
Nơi cư trú: Ấp C, xã K, huyện TVT, tỉnh M (xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ ngày 16/10/2019, Nguyễn Thị Yến L đến bệnh viện đa khoa tỉnh Cà Mau thuộc khóm 6, phường 6, thành phố Cà Mau để mua sổ khám bệnh. Trong thời gian ngồi đợi bệnh viện bán sổ, L ngồi trên ghế đá trước khoa hồi sức tích cực và chống độc quan sát xem có ai để tài sản sơ hở thì lén lấy trộm để tiêu xài cá nhân. Lúc này, bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1955, trú tại xã K, huyện TVT, tỉnh M cùng với con gái là Nguyễn Thị H đang đẩy băng ca đưa chồng bà P từ phòng chụp X quang về đến khoa hồi sức tích cực và chống độc. Bà P đứng phía trước cửa vào khoa để đợi mở cửa. Tại đây, L phát hiện trong túi áo khoác của bà P có để điện thoại di động nên nảy sinh ý định lấy trộm. Thực hiện ý định, L đứng dậy đi đến gần bà P và lén dùng tay trái đưa vào trong túi áo bà P để kéo điện thoại ra. Lúc này, bà P phát hiện nên dùng tay chụp tay của L, khi tay của L còn nằm trong túi áo khoác của bà P. Sau đó bà P trình báo cơ quan Công an đến lập biên bản phạm tội quả tang và tạm giữ tang vật là 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 màu đỏ đã qua sử dụng.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 119/KL-HĐĐG ngày 21/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau, kết luận:
Tại thời điểm tháng 10 năm 2019: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83, giá trị còn lại là 3.120.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Yến L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 là tài sản cá nhân của bà P. Ngày 22/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trao trả điện thoại di động hiệu Oppo A83 lại cho bà P.
Về trách nhiệm dân sự: Hiện tại bà P không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Yến L.
Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 13/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Yến L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến L từ 01 (Một) năm đến 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.
- Bị cáo Nguyễn Thị Yến L yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng.
Đối với người bị hại là bà Nguyễn Thị P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt của người bị hại không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ theo quy định tại điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Yến L khai nhận: Vào khoảng 13 giờ 10 phút ngày 16/10/2019, tại khoa hồi sức tích cực và chống độc của bệnh viện đa khoa tỉnh Cà Mau thuộc khóm 6, phường 6, thành phố Cà Mau. Nguyễn Thị Yến L đã lợi dụng sự sơ hở của bà Nguyễn Thị P để lén lút lấy trộm tài sản của bà P là 01 điện thoại di động hiệu Oppp A83 có giá trị là 3.120.000 đồng với mục đích bán tiêu xài cá nhân thì bị bắt quả tang cùng tang vật.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được và nhiều tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.
[4] Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được hành vi của mình là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại, là vi phạm pháp luật, phải bị pháp luật xử lý nghiêm khắc. Chỉ vì xem thường pháp luật, lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài, nên bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, bản thân bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không biết sửa chữa, không biết hối cãi mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật không biết ăn năn. Do đó, cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra. Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 13/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Hành vi phạm tội do bị cáo gây ra thấy rằng là gây nguy hại cho xã hội, bởi lẽ hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, mà hành vi đó còn gây hoang mang bất bình trong dư luận, gây mất trật tự xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh địa phương. Tuy tài sản bị cáo trộm đã được thu hồi trả lại cho bị hại xong, người bị hại là bà Nguyễn Thị P có đơn bãi nại không yêu cầu về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, nhưng xét thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án kết án về tội trộm cắp tài sản, lần phạm tội này bị cáo thực hiện với lỗi cố ý. Với tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như nhân thân của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống bình thường của xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích, đồng thời cũng để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
[5]Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo trộm có giá trị không lớn. Bị hại đã nhận lại tài sản và có đơn bãi nại cho bị cáo. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Nguyễn Thị Phiên đã nhận tại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị xử lý đối với bị cáo là có căn cứ.
[8] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Yến L (Nguyễn Thị Út N) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến L (Nguyễn Thị Út N) 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16/10/2019 đến này 22/10/2019.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Yến L (Nguyễn Thị Út N) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2020/HS-ST
Số hiệu: | 13/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về