TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 119/2022/HS-ST NGÀY 06/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 89/2022/TLST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Trương Chí H, sinh năm 1992 tại Bạc Liêu; thường trú: ấp Tr, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn K, sinh năm 1958 và bà Lý Thị T, sinh năm 1959; vợ tên Nguyễn Thị Bích Tr, sinh năm 1994 và 02 con; lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không;
Các ngày 18/11/2018, 13/12/2018 và 21/12/2018 có hành vi cùng đồng phạm “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 11/02/2019 bị khởi tố bị can và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ra Lệnh bắt bị can để tạm giam nhưng bỏ trốn nên bị truy nã theo Quyết định truy nã số 16 ngày 12/6/2019. Ngày 15/01/2022 bị bắt truy nã, bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã T cho đến nay; có mặt.
- Bị hại:
+ Ông Phạm Văn X, sinh năm 1983; địa chỉ: khu phố Z, phường W, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt;
+ Ông Đặng Thái S, sinh năm 1984; địa chỉ: thôn P, xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; có đơn xin vắng mặt;
+ Ông Cao Xuân Th, sinh năm 1984; địa chỉ: khu phố 3, phường J, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1963; địa chỉ: ấp Xẻo Vông C, thị trấn H, thành phố Ng, tỉnh Hậu Giang; có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Duy S1 và Trương Chí H quen biết nhau và làm chung công trình xây dựng nhà xưởng Công ty G tại phường P, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên S1 nảy sinh ý định đến các tiệm Internet chơi game rồi lợi dụng sự sơ hở của chủ tiệm lén lút tháo các linh kiện máy tính bán lấy tiền tiêu xài. S1 và H đã thực hiện 03 vụ trộm cắp linh kiện trong CPU máy vi tính, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/11/2018, sau khi tan ca nghỉ làm tại công trình xây dựng nhà xưởng Công ty G, S1 rủ H cùng đi chơi game. H điều khiển xe mô tô biển số 95E1-235.66 chở S1 đến tiệm Internet A thuộc khu phố P, phường Ph do ông Phạm Văn X làm chủ chơi game. Tại đây, H ngồi ở máy tính số 09, S1 ngồi ở máy tính số 10. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, S1 quan sát xung quanh không thấy chủ tiệm trông coi tiệm nên kêu H ngồi che lại cho S1 dùng tay mở nắp thùng CPU máy tính số 10 lấy trộm 01 chip CPU Intel Core I3- 8100 cùng với 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 8GB rồi nhanh chóng cất giấu vào trong túi quần và kêu H thanh toán tiền chơi game để đi về. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở S1 về lại nhà trọ của H tại phường B, quận (nay là thành phố) Th, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi về đến phòng trọ của H, S1 mượn xe mô tô biển số 95E1-235.66 của H đến khu vực chợ Nh thuộc phường 7, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với số tiền 1.500.000 đồng rồi điều khiển xe về trả H và chia cho H 300.000 đồng, số tiền còn lại S1 tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 10 giờ ngày 19/11/2018, ông X kiểm tra máy vi tính trong tiệm thì phát hiện máy tính số 10 bị mất trộm 01 con chíp CPU intel core I3-8100 và 01 Ram Gskill, dung lượng 8GB nên đến Công an phường Ph trình báo sự việc.
Bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 25 ngày 11/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã T kết luận: 01 con chíp CPU intel core I3- 8100, đã qua sử dụng trị giá 2.900.000 đồng; 01 Ram Gskill, dung lượng 8GB, đã qua sử dụng trị giá 1.350.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày 18/11/2018 là 4.250.000 đồng.
Vụ thứ hai: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/12/2018, do thiếu tiền tiêu xài, S1 rủ H đến các tiệm Internet để trộm cắp linh kiện máy tính bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, nhiệm vụ của H là ngồi chơi game và cảnh giới cho S1 thực hiện, H đồng ý. Thực hiện ý định, H điều khiển xe mô tô biển số 95E1-235.66 chở S1 đi từ công trình xây dựng nhà xưởng Công ty G đến tiệm Internet Th thuộc khu phố 3, phường J, thị xã T do ông Cao Xuân Th làm chủ. Tại đây, S1 ngồi ở máy tính số 10, còn H ngồi ở máy tính số 11 chơi game. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, trong lúc chơi game, S1 quan sát xung quanh thấy không có người trông coi tiệm nên dùng tua vít mang theo mở nắp thùng CPU máy tính số 10 ra rồi lấy trộm 01 con chíp CPU Intel Core I3-4150 cùng 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 4GB rồi tiếp tục mở nắp thùng CPU máy tính số 11 ra lấy trộm 01 con chíp CPU Intel Core I3- 4150 cùng 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 4GB. Sau đó, cả hai thanh toán tiền chơi game rồi H điều khiển xe mô tô chở S1 về lại nhà trọ của H. Khi về đến phòng trọ của H, S1 tiếp tục mượn xe mô tô biển số 95E1-235.66 của H đến khu vực chợ Nh bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với số tiền 2.200.000 đồng rồi quay về trả xe cho H và chia cho H 300.000 đồng, số tiền còn lại S1 tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, ông Th kiểm tra lại máy vi tính trong tiệm thì phát hiện máy tính số 10 và 11 bị mất trộm 02 con chíp CPU intel core I3-4150 và 02 Ram Gskill, dung lượng 4GB. Ngày 22/12/2021, ông Th đến Công an phường J trình báo sự việc.
Bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 43 ngày 23/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã T kết luận: 02 con chíp CPU intel core I3- 4150 trị giá 1.136.000 đồng/cái; 02 Ram Gskill, dung lượng 4GB trị giá 325.000 đồng/cái. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày 13/12/2018 là 2.922.000 đồng.
Vụ thứ ba: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21/12/2018, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân, S1 rủ H đi đến các tiệm Internet để trộm cắp linh kiện máy tính bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. H điều khiển xe mô tô biển số 95E1-235.66 chở S1 đi từ công trình xây dựng nhà xưởng Công ty G đến tiệm Internet S thuộc khu phố 1, phường J, thị xã T do ông Đặng Thái S làm chủ. S1 ngồi ở máy tính số 06, còn H ngồi ở máy tính số 07 chơi game. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, S1 quan sát xung quanh thấy không có người trông coi tiệm nên dùng tua vít mang theo mở thùng CPU máy tính số 06 ra lấy trộm 01 con chíp CPU Intel Core I3-4150 cùng 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 4GB; lấy trộm 01 con chíp CPU Intel Core I3-4150 cùng 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 4GB tại máy vi tính số 07; 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 4GB tại máy vi tính số 08 và 01 thanh bộ nhớ Ram Gskill 4GB tại máy vi tính số 09. Sau đó, cả hai thanh toán tiền chơi game rồi H điều khiển xe mô tô chở S1 về lại nhà trọ của H. Khi về đến phòng trọ của H, S1 tiếp tục mượn xe mô tô biển số 95E1- 235.66 đến khu vực chợ Nh bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với số tiền 1.900.000 đồng. S1 quay về trả xe cho H và chia cho H 400.000 đồng, số tiền còn lại S1 tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, ông S kiểm tra lại máy vi tính trong tiệm thì phát hiện tại các máy tính số 6, 7, 8, 9 bị mất trộm 02 con chíp CPU intel core I3-4150 và 04 Ram Gskill, dung lượng 4GB nên đến Công an phường J trình báo sự việc.
Bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 26 ngày 11/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã T kết luận: 02 con chíp CPU intel core I3- 4150 trị giá 655.000 đồng/cái; 04 Ram Gskill, dung lượng 4GB trị giá 375.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày 21/12/2018 là 2.810.000 đồng.
Đến ngày 22/12/2018, khi Trần Duy S1 và Trương Chí H đang điều khiển xe mô tô biển số 95E1-235.66 lưu Th trên địa bàn phường J, thì bị Công an phường J phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên mời về trụ sở làm việc. Tại cơ quan công an, S1 và H đã khai nhận vào các ngày 18/11/2018, 13/12/2018 và 21/12/2018, tại địa bàn phường P và phường J, S1 và H 03 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt linh kiện máy tính là các con chíp CPU và thanh bộ nhớ Ram trong tiệm Internet của các bị hại Phạm Văn X, Cao X Th và Đặng Thái S. Công an phường J lập hồ sơ vụ việc ban đầu và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan gồm: 01 xe mô tô biển số 95E1-235.66; 02 USB hiệu Sandisk.
Xe mô tô biển số 95E1-235.66 do ông Nguyễn Văn Trọng đứng tên đăng ký chủ sở hữu nhưng ông Trọng đã bán lại xe cho ông Nguyễn Văn Hải với số tiền 15.000.000 đồng, khi mua bán không làm thủ tục sang tên chủ sở hữu theo quy định. Ông Hải cho con rể là Trương Chí H mượn xe này đi làm. H sử dụng xe đi trộm cắp tài sản ông Hải không biết. Ngày 12/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 06 trả lại xe cho ông Nguyễn Văn Hải.
Bản Cáo trạng số 109/CT-VKS-TU ngày 20/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trương Chí H về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trương Chí H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.
- Về trách nhiệm dân sự đã được Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương giải quyết tại Bản án số 128/2021/HS-ST ngày 19/10/2021 nên không yêu cầu đặt ra xem xét.
- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp đã được Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xử lý tại Bản án số 128/2021/HS-ST ngày 19/10/2021 nên không yêu cầu đặt ra xem xét.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thu tuc tố tung: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có đơn xin vắng mặt. Quá trình điều tra, lời khai của họ không mâu thuẫn với lời khai của bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đại diện Viện kiểm sát và bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt những người này. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo Trương Chí H khai nhận: Do cần tiền tiêu xài nên vào các ngày 18/11/2018, 13/12/2018 và 21/12/2018, tại địa bàn phường P và phường J, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Trần Duy S1 và Trương Chí H 03 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt linh kiện máy tính là các con chíp CPU và thanh bộ nhớ Ram trong tiệm Internet của ông Phạm Văn X, ông Cao Xuân Th và ông Đặng Thái S. Tổng giá trị tài sản thiệt hại là 9.982.000 đồng. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác. Quá trình điều tra, bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra. Do đó, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trương Chí H phải chịu tình tiết tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Đối với hành vi “Trộm cắp tài sản” của Trần Duy S1, về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp đã được Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử và xử lý tại Bản án số 128/2021/HS-ST ngày 19/10/2021 nên không đặt ra xem xét.
[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trương Chí H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trương Chí H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/01/2022.
2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Trương Chí H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo; các bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2022/HS-ST
Số hiệu: | 119/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về