Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 119/2020/HS-PT NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo V.T.T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 82/2020/HS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Bị cáo có kháng cáo: V.T.T (T Hình Nộm), sinh năm 1976 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: Số xx N, Khu phố x, Phường x (nay là phường A), thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; chỗ ở hiện nay: nhà trọ số xxxF Khu phố x, phường P, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông V.V.C (chết) và bà P.T.B, sinh năm 1952; sống chung như vợ chồng với chị M.N.T, sinh năm 1986, có 01 con sinh năm 2003; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2005/HSST ngày 19/12/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Tre (nay là thành phố Bến Tre), tỉnh Bến Tre đã xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (chưa thi hành xong phần bồi thường dân sự); tiền sự: tại Quyết định số 20/QĐ-XPHC ngày 07/10/2016 của Công an Phường 1 (nay là phường A), thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã xử phạt 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; tại Quyết định số 10/QĐ-TA ngày 23/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đã áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

V.T.T đã bị Tòa án kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản của người khác, cụ thể: Vào tối ngày 30/12/2019, V.T.T đi ngang qua nhà ông T.V.N ở Số xxx/xx N, Phường x (nay là phường A), thành phô Bến Tre, tỉnh Bến Tre thì phát hiện cây mai vàng cao 70 cm, bề hoành gốc 28 cm, tán rộng 80 cm của ông Năm trồng trong chậu cạnh hàng rào có dáng đẹp nên nảy sinh ý định lấy trộm. Để thực hiện ý định, đến khoảng 02 giờ ngày 31/12/2019, V.T.T điều khiển xe mô tô biển số 71FL-xxxx đến trưởc cửa rào nhà ông N, dùng tay thò vào trong hàng rào nhổ lấy cây mai của ông N rồi đem về nhà trọ nơi V.T.T thuê ở số xxxF, Khu phố 2, phường Phú Khương, thành phố Bến Tre trồng. Sau đó, hành vi của V.T.T bị phát hiện nên V.T.T đem cây mai giao nộp cho cơ quan Công an.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) cây mai vàng cao 70 cm, bề hoành gốc 28 cm, tán rộng 80 cm.

- 01 (một) xe mô tô biển số 71FL - xxxx.

Theo bản kết luận đinh giá tài sản số 27/KL-HĐĐG ngày 10/01/2020 của Hội đồng định giá thành phố Bến Tre kết luận: 01 cây mai vàng cao 70 cm, bề hoành gốc 28 cm, tán rộng 80 cm trị giá tài sản ngày 31/12/2019 là 500.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã tuyên bố bị cáo V.T.T phạm “Tội trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo V.T.T 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án; Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 08/10/2020, bị cáo V.T.T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung của bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị: không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo V.T.T 07 (bảy) tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”.

Bị cáo nói lời sau cùng: yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về phụ giúp gia đình, nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào hành vi của bị cáo V.T.T lén lút chiếm đoạt của ông T.V.N một cây mai vàng cao 70 cm, bề hoành gốc 28 cm, tán rộng 80 cm trị giá 500.000 đồng. Bị cáo Quân có 01 tiền án về “Tội trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án đối với bị cáo V.T.T là đúng quy định pháp luật, không oan sai.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 07 tháng tù là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án kết án, trong đó có “Tội trộm cắp tài sản” và đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng không chịu sửa chữa bản thân mà tiếp tục phạm tội. Điều đó đã minh chứng rằng, bị cáo là người khó cải tạo giáo dục nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trước thực trạng tội phạm xâm phạm sở hữu đang có chiều hướng gia tăng. Do đó, kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[3] Đối với quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để đề nghị xử phạt bị cáo 07 tháng tù là có cơ sở nên được chấp nhận.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo V.T.T 07 (bảy) tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

2. Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: án phí hình sự phúc thẩm bị cáo V.T.T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2020/HS-PT

Số hiệu:119/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về