Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 116/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 9 năm 2021,tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh N xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2021/HSST, ngày 26 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/QĐ XXST-HS ngày 15/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên:Vũ Thái T (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 26/10/1972 tại xã D, huyện D, tỉnh N; Nơi cư trú: Xóm 9, xã D, huyện D, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn:

Lớp 01/12; Họ tên cha: Vũ Quang P, sinh năm 1934; Họ tên mẹ: Đặng Thị L, sinh năm 1935; Anh chị em ruột: Có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình;Vợ, con: Không có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/3/1992 bị Tòa án nhân dân tỉnh N xử phạt 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân” tại bản án số: 18/HSST, chấp hành xong 02/12/1996; Ngày 11/4/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh N xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án số: 18/HSST, chấp hành xong 12/01/1998; Ngày 14/11/1998 bị Tòa án nhân dân tỉnh N xử phạt 07 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án số: 357/HSST, chấp hành xong 15/11/2003;Ngày 10/3/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh N xử phạt 06 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án số: 45/HSST, chấp hành xong 02/6/2010;Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/5/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. ( Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1977; Trú tại xóm X, xã H, huyện Y, tỉnh N. (Vắng mặt) .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 25/5/2021, Vũ Thái T một mình từ nhà của mình ở xóm 9, xã D, huyện D, tỉnh N, đến chùa T thuộc xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh N, để thắp hương. Sau khi thắp hương xong, Vũ Thái T đi vệ sinh trong khuôn viên của chùa, sau đó đi ra để về. Trên đường đi từ nhà vệ sinh ra để về, khi đi ngang qua phòng của trụ trì chùa T là ông Đinh Đức K (Tên gọi khác Thích Tuệ T) sinh năm 1991, trú tại xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh N, thì Vũ Thái T phát hiện 01 chiếc điện thoại IPHONE 7 Plus, màu đen bên ngoài có ốp nhựa màu vàng của chị Hoàng Thị H, sinh năm 1977, trú tại xóm X, xã H, huyện Y, tỉnh N, đang xạc pin. Lúc này, Vũ Thái T nảy sinh ý điện lấy trộm chiếc điện thoại của chị H để sử dụng. Vũ Thái T quan sát xung quanh không có ai, đã dùng tay rút dây xạc điện thoại ra khỏi điện thoại, rồi bỏ chiếc điện thoại vào túi quần đang mặc. Sau khi trộm được điện thoại, Vũ Thái T đi về nhà ở của mình. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Vũ Thái T nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên đã đến ban Công an xã H, huyện Y, tỉnh N để đầu thú về hành vi phạm tội của mình, đồng thời giao nộp lại chiếc điện thoại đã trộm cắp.

Ngày 26/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản.Tại Bản kết luận định giá tài sản số:

14/KL-HĐĐGTS ngày 28/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: “01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen viền vàng, số máy MN4M2VN/A; số Seri: C39STBP8HFY7; Số IMEI: 353809082651222; bên trong có chứa 01 sim 0979119665; điện thoại đã qua sử dụng, hiện nay vẫn còn hoạt động; tại thời điểm định giá có giá trị 3.200.000 đ (ba triệu hai trăm ngàn đồng)”.

Vật chứng vụ án: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen, viền vàng.

Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen, viền vàng, cho chủ sở hữu là chị Hoàng Thị H theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Hoàng Thị H đã nhận lại điện thoại không có yêu cầu đền bù gì thêm.

Tại bản cáo trạng số:101/CT-VKS-YT, ngày 23 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N truy tố Vũ Thái T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xử lý đối với bị cáo như sau:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Vũ Thái T từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nên không không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại trong vụ án đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên miễn xét.

- Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của Vũ Thái T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen, viền vàng sử dụng để phục vụ công tác điều tra. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xác định chiếc điện thoại này là tài sản hợp pháp của chị Hoàng Thị H nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu trong giai đoạn điều tra là đúng qui định.

- Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Thái T phải nộp án phí theo quy định tại Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, bị cáo đề nghị hội đồng xét xử, xem xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên;Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ buộc tội: Buổi chiều ngày 25/5/2021, tại khu vực chùa T ở xóm C, xã H, huyện Y Vũ Thái T đã lén lút trộm cắp của chị Hoàng Thị H một điện thoại Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen, viền vàng đang sạc pin tại phòng của trụ trì C T là ông Đinh Đức K(Tên gọi khác Thích Tuệ T) sinh năm 1991, trú tại xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh N. Sau khi trộm được điện thoại Vũ Thái T nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên đã đến ban Công an xã H, huyện Y, tỉnh N đầu thú, đồng thời giao nộp lại chiếc điện thoại đã trộm cắp.Chiếc điện thoại do Vũ Thái T trộm cắp được Hội đồng định giá xác định có giá trị 3.200.000 đ (Ba triệu, hai trăm ngàn đồng) Trên cơ sở lời khai nhận của bị cáo, lời khai của người bị hại, vật chứng thu được, kết quả định giá tài sản và các chứng cứ khác đã thu thập được. Cơ quan điều tra đã xác định Vũ Thái T phạm tội trộm cắp tài sản. Nên Cơ quan điều tra, điều tra viên đã tiến hành các hoạt động tố tụng theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự như ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Vũ Thái Tĩnh, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của bị hại, để làm cơ sở để xử lý hình sự đối với Vũ Thái T về tội Trộm cắp tài sản. Căn cứ kết quả điều tra và các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N đã truy tố Vũ Thái T về tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người đúng tội, đúng qui định của pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo: Đây là một vụ án thuộc loại án ít nghiêm trọng. Hành vi lén lút đột nhập vào phòng của trụ trì C T, tại xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh N trộm cắp của chị Hoàng Thị H 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen, viền vàng, trị giá 3.200.000 đồng do bị cáo Vũ Thái T thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sử hữu tài sản của công dân được Nhà nước và Pháp luật bảo vệ. Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật nên bị cáo hiểu rỏ rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật.Tuy biết vậy nhưng vì tính tham lam, xem thường pháp luật, nên bị cáo đã liều lĩnh thực hiện hành vi trộm cắp tài sản dẫn đến phạm tội. Vì vậy cần xử lý nghiêm với hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để trừng trị giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng các tình tiết tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, đã đến công an đầu thú, những tình tiết giảm nhẹ này được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.

Xét nhân thân của bị cáo xấu, lẽ ra xử phạt bị cáo với mức án cao hơn đề nghị của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa. Tuy nhiên thấy rằng bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của BLHS, sức khỏe hiện tại yếu, mắt mờ, nên cần áp dụng nguyên tắc nhân đạo của pháp luật xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Hình phạt bổ sung: Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nên không không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Hoàng Thị Hà đã nhận lại tài sản bị mất, chị không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên miễn xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ của Vũ Thái T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, bên ngoài có ốp màu đen, viền vàng sử dụng để phục vụ công tác điều tra. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xác định chiếc điện thoại này là tài sản hợp pháp của chị Hoàng Thị Hà , nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu trong giai đoạn điều tra là đúng qui định.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Thái T phải chịu án phí theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015.

- Xử phạt: Bị cáo Vũ Thái T 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạnh tù tình từ ngày bắt tạm giữ tạm giam đối với bị cáo (Ngày 25/5/2021)

2.Về án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Buộc: Bị cáo Vũ Thái T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do tòa án tống đạt hoặc kể từ ngày niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2021/HS-ST

Số hiệu:116/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về