Bản án về tội trộm cắp tài sản số 115/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 115/2022/HS-ST NGÀY 06/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 71/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Tấn P - Sinh ngày: 12/02/2005, tại Khánh Hòa; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi cư trú: Thôn L 1, xã P, thành phố T, tỉnh H; Họ và tên cha: Võ Tấn V, sinh năm: 1966; Họ và tên mẹ: Tần Thị H (Đã chết); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28 tháng 02 năm 2022 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Võ Tấn V – sinh năm: 1966; Địa chỉ: Thôn Đắc Lộc 1, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo: Ông Huỳnh Văn T, Luật sư, Công ty Luật TNHH một thành viên A Tịnh, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Bị hại: Ông Trần Thanh H - Sinh năm: 1961; Địa chỉ: Tổ 13 N, xã N, thành phố T, tỉnh H. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Võ Tấn T - Sinh năm: 2007; Địa chỉ: Thôn L 1, xã P, thành phố T, tỉnh H. Vắng mặt.

2. Bà Võ Thị Huyền H - Sinh năm: 1960; Địa chỉ: Thôn L 1, xã P, thành phố T, tỉnh H. Vắng mặt.

* Người làm chứng: Trần Thị K - sinh năm: 1977; Địa chỉ: Thôn L 1, xã P, thành phố T, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 26/02/2021, do không có tiền tiêu dùng, Võ Tấn P rủ em ruột của P là Võ Tấn T (Sinh ngày: 29/8/2007, trú tại thôn Đắc Lộc 1, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang) và đối tượng tên “Dảnh” (Hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến nhà dượng của P là anh Trần Thanh H (Sinh năm: 1961, trú tại thôn Đắc Lộc 1, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang), để trộm cắp tài sản thì Thiện và “Dảnh” đồng ý. P dùng xe Club màu xanh, biển kiểm soát: 79F4-9616 chở Thiện và “Dảnh” đến nhà anh Hùng, Thiện và “Dảnh” đứng bên ngoài cảnh giới. Lợi dụng lúc anh Hùng đi ra sau nhà, P vào nhà anh Hùng, lục trong túi quần dài của anh Hùng lấy toàn bộ số tiền 1.450.000 đồng (Một triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng) trong ví, sau đó phát hiện xe máy màu đỏ đen hiệu Suzuki-X- Bike, biển kiểm soát: 79H5-7575 của vợ chồng anh Hùng dựng trong phòng khách có gắn sẵn chìa khóa xe, nên P lén lút dắt trộm xe ra ngoài rồi nổ máy bỏ chạy. Sau đó, P, Thiện và “Dảnh” chạy ra thị xã Ninh Hòa chơi, sử dụng hết số tiền 1.450.000 đồng (Một triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng), sau đó đi tìm chỗ bán xe nhưng không được. Đến ngày 28/02/2021, sau khi nghe tin anh Hùng báo công an, P nhờ “Dảnh” mang xe đến trả lại cho anh Hùng.

Tại Cơ quan điều tra, Võ Tấn P và Võ Tấn T đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 168/KL-HĐĐGTS ngày 05/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận: Xe máy hiệu Suzuki-X-Bike, biển kiểm soát: 79H5-7575, trị giá 4.120.000 đồng (Bốn triệu một trăm hai mươi ngàn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 350/CT-VKSNT ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị can Võ Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Tấn P và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 90, 91 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Võ Tấn P từ 03 (Ba) tháng đến 06 (Sáu) tháng tù. Ngoài ra, còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

2. Bị cáo Võ Tấn P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được quay về với gia đình.

3. Ông Võ Tấn V là đại diện hợp pháp của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

4. Luật sư bào chữa theo chỉ định cho bị cáo đồng ý với tội danh mà Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều khoản quy định đối với người chưa thành niên để giảm nhẹ mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt không có lý do.

Xét thấy, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng, theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, không bị dùng nhục hình, có sự chứng kiến của người đại diện hợp pháp của bị cáo và luật sư chỉ định. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng truy tố:

[3.1] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Tấn P khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Biên bản trích xuất dữ liệu điện tử, lời khai của bị hại, của người làm chứng; Phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ đó, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 26/02/2021, tại thôn Đắc Lộc 1, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang, Võ Tấn P, Võ Tấn T và đối tượng tên “Dảnh” đã có hành vi trộm cắp của anh Trần Thanh H số tiền 1.450.000 đồng và 01 xe máy hiệu Suzuki-X-Bike, biển kiểm soát: 79H5-7575, trị giá 4.120.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.570.000 đồng (Năm triệu năm trăm bảy mươi ngàn đồng). Từ đó, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Cáo trạng số 350/CT-VKSNT ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, truy tố bị cáo Võ Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3.2] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân – khách thể được pháp luật bảo vệ; Làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo tuổi đời còn rất trẻ, có sức khỏe nhưng không chú tâm học hành, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, chăm chỉ lao động mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện tính tham lam, tư lợi và xem thường pháp luật. Hơn nữa, bị cáo còn rủ rê em ruột là Võ Tấn T - sinh ngày: 29/8/2007 cùng thực hiện hành vi phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”, được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3.3] Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Võ Tấn P đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hơn nữa, tại thời điểm phạm tội, bị cáo P đang ở tuổi vị thành niên, còn hạn chế về khả năng nhận thức nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 90, 91 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự 2015, quyết định mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo Võ Tấn P bồi thường thiệt hại (Bút lục số 21), nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xem xét hành vi của các đối tượng khác:

[5.1] Đối với Võ Tấn T - sinh ngày: 29/8/2007, khi thực hiện hành vi phạm tội, Thiện được 13 tuổi 5 tháng 27 ngày, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, không có căn cứ xử lý hành vi trộm cắp của Võ Tấn T.

[5.2] Ngày 12/01/2022, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 06/2022/HSST-QĐ về việc yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang xác minh nhân thân, lai lịch của đối tượng tên “Dảnh” và xem xét trách nhiệm hình sự của đối tượng này.

Sau khi điều tra đã xác định được đối tượng “Dảnh” tên thật là Trần Tuấn Khôi, sinh năm: 2005, có hộ khẩu thường trú tại: 281 Trần Quý Cáp, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tuy nhiên, xác minh tại địa phương thể hiện gia đình của Khôi đã bán nhà đi nơi khác sinh sống từ năm 2014. Và Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang vẫn chưa làm việc được với Trần Tuấn Khôi (Dảnh) nên chưa có căn cứ để khởi tố bị can đối với Khôi về hành vi trộm cắp tài sản.

Do vậy, Hội đồng xét xử kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ đối với đối tượng Trần Tuấn Khôi (Dảnh), sinh năm:

2005, có hộ khẩu thường trú tại: 281 Trần Quý Cáp, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa và xem xét xử lý trách nhiệm hình sự, nếu đủ căn cứ.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Võ Tấn P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 90, 91 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Võ Tấn P;

Xử phạt: Bị cáo Võ Tấn P 04 (Bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, giam thi hành án.

Tiếp tục cấm bị cáo đi khỏi nơi cư trú để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Bị cáo Võ Tấn P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ đối tượng tên Trần Tuấn Khôi (Dảnh), sinh năm:

2005, có hộ khẩu thường trú tại: 281 Trần Quý Cáp, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa và xem xét xử lý trách nhiệm hình sự, nếu đủ căn cứ.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và luật sư bào chữa theo chỉ định cho bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 115/2022/HS-ST

Số hiệu:115/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về