Bản án về tội trộm cắp tài sản số 110/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 110/2021/HS-ST NGÀY 17/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 12 năm 2021, tại Hội trường Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đ, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 132/2021/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Phước C, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1992, tại: Huyện ĐL, tỉnh QN; Nơi cư trú: Thôn PÁ 2, xã ĐN, huyện ĐL, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt N; Con ông Trần Phước T (N) và bà Lê Thị T; chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Nguyễn Lê Trường T, sinh năm: 1994; Địa chỉ: Thôn LTN, xã Đ H, thị xã ĐB, tỉnh QN (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Tấn N, sinh năm: 2001; Địa chỉ: Số 111 Trần Nhân Tông, phường V, thị xã ĐB, tỉnh Q (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 24 tháng 6 năm 2021, Trần Phước C điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius BKS 92E1-xxxxx đi từ ĐL đến cửa hàng nội thất ATZ HOME của anh Nguyễn Lê Trường T thuộc thôn LT N, xã ĐH hỏi mua đồ gỗ. Khi vào cửa hàng, C thấy có một chiếc điện thoại di động Iphone 7 để trên kệ gỗ, quan sát xung quanh thấy không có người trông coi, C nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện hành vi, C lấy điện thoại bỏ vào túi quần rồi ra điều khiển xe xuống phường Vĩnh Điện đến tiệm điện thoại K cầm cho anh Nguyễn Tấn N (chủ cửa hàng) được 1.300.000 đồng. Xong C đến cửa hàng Điện máy xanh - V Đ thực hiện giao dịch chuyển 700.000 đồng vào sim điện thoại C đang sử dụng và tiêu xài hết 40.000 đồng, số tiền còn lại 560.000 đồng C cất giữ để tiêu xài cá nhân. Đối với anh T, sau khi phát hiện bị mất điện thoại, anh T kiểm tra camera an ninh của cửa hàng phát hiện C là người đã thực hiện hành vi trộm cắp, anh T đi theo định vị của điện thoại đến phường ĐA thì gặp C đang trên đường từ VĐ về ĐL nên giữ C lại và báo cơ quan Công an.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 56/HĐ.ĐG ngày 26 tháng 7 năm 2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Đ định giá tài sản thì 01 (một) điện thoại Iphone 7 vào thời điểm tháng 6/2021 có giá trị 3.250.000 đồng (ba triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).

* Việc tạm giữ và xử lý vật chứng:

- Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ đã thu giữ 01 điện thoại Iphone 7 màu vàng và đã ra quyết định trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Lê Trường T.

- Số tiền 560.000 đồng, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho anh Nguyễn Tấn N.

- 02 đĩa DVC chứa đoạn video ghi nhận nội dung, hình ảnh ghi lại diễn biến hành vi phạm tội của bị can Trần Phước C do anh Nguyễn Lê Trường T cung cấp.

* Về dân sự: Anh Nguyễn Lê Trường T đã nhận lại điện thoại di động, anh Nguyễn Tấn N đã nhận lại 560.000 đồng từ cơ quan điều tra; quá trình điều tra Trần Phước C đã bồi thường thêm cho anh Nguyễn Tấn N số tiền 740.000 đồng, anh T và anh N không yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ thì bị cáo Trần Phước C bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, 65 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Phước C từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến gì về kết luận điều tra và quyết định truy tố. Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng khác, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 17 giờ ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại nhà anh Nguyễn Lê Trường T (trú: thôn LTN, xã ĐH, thị xã ĐB), bị cáo Trần Phước C đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh T 01 điện thoại Iphone 7 màu vàng đem đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Tại Kết luận định giá tài sản số 56/HĐ.ĐG ngày 26 tháng 7 năm 2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Đ định giá tài sản thì 01 (một) điện thoại Iphone 7 vào thời điểm tháng 6/2021 có giá trị 3.250.000 đồng (ba triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố.

[3] Xét tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện là lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi sự việc phát hiện, bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại đã nhận lại tài sản; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng, HĐXX xét thất không cần áp dụng hình phạt tù mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là thỏa đáng; bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn việc khấu trừ thu nhập trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Nguyễn Lê Trường T đã nhận lại tài sản và ông Nguyễn Tấn N đã nhận lại số tiền 1.300.000đ và không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[6] Các vấn đề khác:

- Đối với Nguyễn Tấn N, không biết điện thoại do Trần Phước C mang đến cầm cố là tài sản do trộm cắp mà có, HĐXX không xem xét.

- Đối với chiếc xe mô tô BKS 92E1-xxxxx không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Lê Thị T (mẹ ruột C) là phù hợp nên HĐXX không xem xét.

- Đối với điện thoại Iphone 4 đã thu giữ của Trần Phước C không liên quan đên hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho Trần Phước C là phù hợp.

- Tiếp tục tạm giữ 02 đĩa DVC chứa đoạn video ghi nhận nội dung, hình ảnh ghi lại diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo Trần Phước C theo hồ sơ vụ án.

[7] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên áp dụng điều luật và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận, nhưng về hình phạt HĐXX xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo nên HĐXX không chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Phước C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Trần Phước C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Xử phạt: Bị cáo Trần Phước C 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

Giao bị cáo Trần Phươc C cho UBND xã ĐN, huyện ĐL, tỉnh Quảng N để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Tiếp tục tạm giữ 02 đĩa DVC chứa đoạn video ghi nhận nội dung, hình ảnh ghi lại diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo Trần Phước C theo hồ sơ vụ án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Phước C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 110/2021/HS-ST

Số hiệu:110/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về